Thư đến: '... Con rất đau khổ khi nhận ra rằng: “Không có biện pháp an tâm thì không bao giờ có ngộ”.'
H, ngày 20/06/2001

Đức Thầy tôn kính,
Con xin sám hối trước Đức Thầy, hành pháp Vô Vi đã gần 20 năm qua, đến nay con vẫn chưa đạt được sự vi diệu của pháp, như lòng mong muốn của Đức Thầy. Con xin điểm qua quá trình tu học để mong được Đức Thầy quan tâm chỉ giáo khai tâm mở trí cho con hầu thấu triệt và đạt được sự vi diệu của pháp. Năm 1980 con ở vùng kinh tế mới xã Hòa Thành, Đắc Lắc, quen thân với anh K. Từ đó được học Pháp Lý Vô Vi và con đã trường chay tu tập, con thấy có nhiều kết quả, phát triển tâm linh rất nhiều.
Sau một thời gian, cuộc sống bị rất nhiều khảo đảo, con thấy chán nản. Cuộc sống quá khó khăn, với sức con không thể nuôi sống gia đình, nên con đã đưa gia đình về H nương nhờ cha mẹ năm 1991. Với hai bàn tay trắng con và vợ phải bươn chải kiếm gạo qua ngày nuôi các con ăn học. Đến hôm nay cuộc sống vẫn thiếu hụt trước sau: Hai trai đã vào đại học năm thứ 2, một gái út học lớp 12, một gái nữa cùng mẹ may hàng gia công. Phần con trước còn mạnh đạp xe, sau này bán vé số ế ẩm quá, chỉ đủ tiêu vặt. Ngày qua ngày con chẳng được thanh thản, vấn đề cơm áo gạo tiền luôn luôn nặng trĩu đầu óc, chẳng một cơ may nào đến với con. Mặc dầu con đã am hiểu lời dạy của Đức Thầy, mọi vật đều vô thường, sắc sắc không không. Nhưng ngày nay phải chứng kiến biết bao chuyện, nhu cầu cuộc sống cho gia đình và giao tế xã hội phải cần đến tiền bạc, vì vậy làm sao con yên tâm được. Phải đào tạo cho con cái nên người, mong cho chúng thành đạt. Mỗi lần khai giảng là mỗi lần con lo lắng, hằng tháng làm sao có tiền đóng học phí cho con, nhất là khi chúng vào đại học. Ngoài học phí hàng năm, còn phải lo tiền học quân sự, tiền thực tập, vv... Con rất đau khổ khi nhận ra rằng: “Không có biện pháp an tâm thì không bao giờ có ngộ”.
Kính thưa Đức Thầy! Con trình bày trên để mong Thầy hiểu cho hoàn cảnh mà con phải chịu đựng bao nhiêu năm trường. Cầu mong được Đức Thầy với lòng từ bi chỉ cho con một con đường sáng cho con được vượt qua cửa ải nầy, con quyết tâm đạt cho được cảnh giới Vô Vi. Con giờ chẳng biết gì hơn, với tâm thành nguyện cầu sự quang chiếu của Đức Thầy và Đấng Đại Bi Toàn Năng.
Bao năm qua con chịu nhiều thử thách khảo đảo, tưởng chừng không vượt qua được, nhưng trong tâm thức con vẫn trụ được đến hôm nay là nhờ ơn điển của Đức Thầy đã ban cho con bằng những cơ duyên gặp gỡ các huynh đệ tỷ muội như bác T, anh M, anh Q, anh S, anh H và ở thành phố HCM như huynh E, anh L, chị H, anh L, anh M, vv..., đã động viên hỗ trợ cho con từ tinh thần lẫn vật chất.
Con xin dừng bút, con xin ghi nhớ trong lòng công đức vô lượng của Đức Thầy. Con xin kính chào Đức Thầy với muôn vàn kính yêu.

Con,
LVT
 
Thư đi:
A C, ngày 19/11/2001

VT,
Thầy vui nhận được thư con đề ngày 2/6/2001, được biết con đang gặp sự thử thách của đời lẫn đạo trong hành trình tu học, nhờ đó con mới thấu triệt nghiệp lực là gì ?
Con cần học thuộc lòng 10 điều tâm niệm như sau:
1) Nhịn nhục và cần mẫn
2) Dứt khoát thất tình lục dục
3) Tha thứ và thương yêu
4) Nuôi dưỡng tinh thần phục vụ tối đa
5) Bố thí và vị tha
6) Đối đãi thật tâm và lễ độ
7) Sống tạm để cứu đời không phải để hưởng thụ
8) Giữ tâm thanh tịnh trong mọi trường hợp xảy ra
9) Quên mình trì niệm lục tự Di Đà
10) Hòa tan trong khổ mưu cầu sớm thức tâm.

Càng tu sẽ thấy rõ nghiệp lực của chính mình đã gieo trồng từ lâu, cần ăn năn sám hối, sửa tu thì sẽ có kết quả ở tương lai. Cần nhịn nhục tối đa mới đạt được sự thanh tịnh của nội tâm bằng dùng ý niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì nội tâm sẽ được quân bình, mọi sự sẽ được an bài tốt đẹp. Con đã tin nơi Trời Phật thì Trời Phật sẽ cứu độ con vượt qua khổ nạn. Chúc con và gia đình vui tiến.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
Vĩ Kiên
OngTamVietThu3
 
Vài thư đi thư lại mới đây
681. Ngày 18-02-1998. Người viết: ÐVH
682. Ngày 07-02-1998. Người viết: NTS
683. Ngày 27-10-1997. Người viết: LTB
684. Ngày 23-09-1997. Người viết: NTBV
685. Tháng 12-1997. Người viết: TB
686. Ngày 18-12-1997. Người viết: LVD
687. Ngày 01-02-1998. Người viết: NTÐ
688. Ngày 18-02-1998. Người viết: NVT
689. Ngày 14-01-1998. Người viết: TM & NTKH
690. Ngày 01-02-1998. Người viết: TVT & TTL
691. Ngày 24-12-1996. Người viết: NVT
692. Ngày 26-09-1990. Người viết: ND
693. Ngày 06-03-1990. Người viết: PTPL
694. Ngày 14-03-1990. Người viết: NTT
695. Ngày 03-05-1990. Người viết: NTH
696. Ngày 16-06-1981. Người viết: CVL
697. Ngày 19-01-1990. Người viết: PTT
698. Ngày 03-07-1990. Người viết: TP
699. Ngày 25-09-1999. Người viết: LTN
700. Ngày 14-06-1981. Người viết: LĐ
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 29 30 31 32 33 34 [35] 36 37  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: