Thư đến: '... Con tin rằng sẽ thoát khỏi nghịch cảnh...'
TP HCM, ngày 19/01/90

Kính gởi Cha LSH,
Lâu nay con không viết thư cho Cha được, nay Cha thường ghé thăm em con nên thuận tiện biết địa chỉ, con viết ngay; Còn Cha thì ra sao? Con không được rõ.
Riêng con thì bị dồn dập đủ nghịch cảnh, từ gia đình đến trường đời con bị vấp ngã. Từ khi biết ra đời và nếm mùi chua cay chát đắng mặn nồng, mà con không sao tránh được. Bởi vậy con tin rằng con sẽ thoát nghịch cảnh, để con được nếm cái thuận cảnh cho con được an nhàn thảnh thơi hơn. Con mong mỏi một ngày rất gần con sẽ được gặp Cha và mãi mãi ở con không bao giờ mất Cha và thiếu Cha vì Cha là chúa tể của muôn loài, là càn khôn của vũ trụ, Cha đã dạy dỗ con từ cử chỉ hành động, lời nói của Cha mà con không bao giờ quên được, nó đã in sâu tận tâm khảm con và tồn tại vĩnh cửu ở con, mặc dầu không có Cha, con rất là chậm tiến, nhưng Cha ơi con vẫn học trong cái khổ ải, Cha có biết không? Con đã khóc thầm kêu Cha và rên rỉ ở tận đáy lòng và nó đã thấm nhuần ở con trong cái khổ, phước lành ở con được bao nhiêu, con hưởng bấy nhiêu, từ đó con biết an ủi lấy con và tự giải lấy nghịch cảnh để con được thăng hoa tiến triển theo luật hóa hóa sanh sanh của càn khôn vũ trụ, để phần hồn con được tiến thẳng theo Cha.
Cha, con nhờ em con gởi thư chuyển hộ cho Cha; Con mong rằng sẽ đến tận tay Cha đọc và giúp con được bao nhiêu con hưởng bấy nhiêu, đó là hồng ân mà Cha ban cho con. Con của Cha.

PTT
 
Thư đi:
Réunion, ngày 03/05/92

T con,
Cha đã nhận được thư con đề ngày 19/01/90, được biết con đã trong hành trình vàng thau lẫn lộn, nghịch thuận tương giao trong chu trình tiến hóa.
Trong khổ có sướng, trong sướng có khổ. Đó là định luật của vũ trụ hiện tại. Còn thực chất của sự tiến hóa là ý chí vô cùng tận của tâm linh, nếu con vun bồi được ý chí này thì đâu còn sự vui buồn nữa con, chỉ giữ tâm thanh tịnh và tự tạo một gương lành tận độ chúng sanh là điều cần thiết. Những gì gút mắc trên đường đời, Cha đã thỏ thẻ bên tai con trước khi rời Việt Nam. May thay và lành thay! Ngày nay con cảm thức được những tia sáng ban chiếu ấy trong lúc con đang còn yếu ớt và thanh nhẹ. Ngày hôm nay con đã thực thi và dấn thân trong nghịch cảnh, lại càng thấm thía hơn, lại cảm thức nhiều hơn. Bây giờ con mới nhìn nhận thế gian đều là giả, học xong bài học rồi, mọi người sẽ tự ra đi, chẳng có gì đáng than trách cả. Có được điêu luyện mới được tiến hóa. Có vun bồi ý chí mới thấy rõ hùng tâm dũng chí của chính mình. Rồi đâu cũng sẽ vào đấy.
Con đã có một cơ hình cấu trúc bởi siêu nhiên mà có, hiên ngang đứng thẳng giữa vũ trụ. Chẳng có ai có thể chế con ra được. Vì xác thân của con là cặn bã của thanh quang, thế gian chỉ biết nhìn và phê luận mà thôi, chứ chưa có một giới nào có thể sản xuất con được hết. Vậy con nên hiên ngang sống trong lẽ sống hiện tại, nằm trong nguyên lý có có không không. Tu theo Phật, ta là Phật, thì mới chấp nhận chừa bỏ tánh tư tật xấu. Nháy mắt về Trời chung sống hòa bình. Vui lên đi con! Sống với một lẽ sống hiện taị, đầy tình tiết làm người hiện tại, bước từ bước một trong thanh tịnh.
Sự đau khổ của con tức là sự đau khổ của Cha. Trong khổ có sướng, trong sướng có khổ. Trong tử có sanh, trong sanh có tử. Nói ít hiểu nhiều! Phải giữ lấy thanh tịnh và nuôi dưỡng ý chí bất diệt, ra đi với từ quang thanh tịnh của chính con, thì mọi việc sẽ được yên.

Quý thương,
LSH
OngTamwriting
 
Vài thư đi thư lại mới đây
681. Ngày 18-02-1998. Người viết: ÐVH
682. Ngày 07-02-1998. Người viết: NTS
683. Ngày 27-10-1997. Người viết: LTB
684. Ngày 23-09-1997. Người viết: NTBV
685. Tháng 12-1997. Người viết: TB
686. Ngày 18-12-1997. Người viết: LVD
687. Ngày 01-02-1998. Người viết: NTÐ
688. Ngày 18-02-1998. Người viết: NVT
689. Ngày 14-01-1998. Người viết: TM & NTKH
690. Ngày 01-02-1998. Người viết: TVT & TTL
691. Ngày 24-12-1996. Người viết: NVT
692. Ngày 26-09-1990. Người viết: ND
693. Ngày 06-03-1990. Người viết: PTPL
694. Ngày 14-03-1990. Người viết: NTT
695. Ngày 03-05-1990. Người viết: NTH
696. Ngày 16-06-1981. Người viết: CVL
697. Ngày 19-01-1990. Người viết: PTT
698. Ngày 03-07-1990. Người viết: TP
699. Ngày 25-09-1999. Người viết: LTN
700. Ngày 14-06-1981. Người viết: LĐ
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 29 30 31 32 33 34 [35] 36 37  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: