Thư đến: '... Tu là cội phúc, oan trái do “tham sân si hỷ nộ ái ố dục” mà ra'
Việt Nam, ngày 08/02/2002

Kính thưa Ân Sư Cao Quý,
Con kính chúc sức khỏe Thầy cùng bửu quyến vạn an; Các bạn đạo trong cũng như ngoài nước tu hành tinh tấn và gia đình hạnh phúc.
Thưa Thầy! Con tu hành xưa sau nay vậy; Con thích tu ẩn giải thoát, vì được Tổ Thầy dạy cho cái Pháp, lấy đó công phu thực hành rõ ràng cái hiệu năng của nó trong giờ phút tọa thiền. Chỉ có siêng, kiên nhẫn; Đạo không tốt xấu, cao thấp, hay dở; Cái Pháp cũng vậy, do hành giả công phu tốt hay không. Tâm linh điển quang do Soi Hồn, Pháp Luân, Thiền Định, cho hành giả nhiều cái hay siêu lý bất ngờ. Người học trò phải nắm cái Pháp cho vững, tiến tu âm thầm thanh tịnh. Bạn tu chơn, nó tự nhiên vui vẻ hạnh phúc trong không không vô cùng tận; Vì chuyện đời không phải của mình, mặc dù mình ở đó mà nó không lay chuyển mình được. Nắm một Pháp biết được vạn Pháp; Rất có lợi, làm chủ được thói hư tật xấu của mình thì biết được người, vì họ và ta đều có mang một thân giống nhau.
Thưa Thầy! Ở Việt Nam, ở nước ngoài nhiều Đạo nhiều Pháp, nhưng có một, không để lý luận đánh lừa xí gạt mê tín dị đoan. Cái chơn lý ở đâu cũng sáng, đời nào xã hội nào cũng lấy đó làm gốc, thế giới này là một ảo giác nay còn mai mất, chỉ có tâm linh trí huệ, phần hồn đời đời bất diệt. Tu là cội phúc, oan trái do “tham sân si hỷ nộ ái ố dục” mà ra. Hành giả quên – đầy rún, đầy ngực, tung lên bộ đầu – để tìm chơn lý (ở tâm không). Thương Thầy với số tuổi càng cao; Con ngộ đạo từ lúc gặp Thầy, 1975 đến nay, mỗi tháng mỗi năm nó khác, tùy học trò, chớ nguyên lý có một. Hồi năm 73-75, học trò tu êm ái thanh tịnh, thiền đường trong TÂM. Bây giờ ồn ào, tiền bạc, thiền viện bên ngoài. Cái giải thoát vô điều kiện với Luân Hồi có tính toán. Con chỉ ngồi cười cho sự làm phiền Thầy. Con tu trong cô đơn tẻ lạnh, thanh tịnh, rất thích hợp tùy theo thời kỳ và trình độ. Thầy ơi! Bạn đạo sau nầy họ hiểu lầm cái trụ một chỗ với cái tán. Trụ nó không không trong thanh điển đi lên. Còn tán nó đi xuống để có cái chùa Vô Vi sắc tướng; Lúc đó Thầy còn sống mà phải nương theo hành giả, ở cái cảnh giả tạo xi măng cốt sắt. Thầy bảo tổ chức bên trong, mà lại xài bên ngoài. Tự do ai muốn hiểu sao cũng tốt. Ôi đời, học trò khỏi tu, cứ để Thầy tu Thầy vớt mình về Trời, cứ ủng hộ Ổng tu tốt lắm rồi. Thương Thầy ở cái khuyên tu, có Pháp sẵn sàng, khỏi mua, khỏi tốn tiền – quy y Phật, Pháp, Tăng – chỉ công phu mà để lỡ duyên với Phật Vĩ Kiên thì rất lỗi.
Pháp Lý Vô Vi có một không hai. Thầy đắc Pháp, truyền Pháp, vô cùng có phước; Ít gặp được ở thế gian này, thế mà hành giả lại thờ ơ. Công phu tốt, ta vui vẻ đi chùa, vô nhà thờ, ở thánh thất, ta không bị lôi cuốn. Lấy Pháp mà thực hành thì diệu Pháp đưa hành giả tới chỗ rốt ráo – của ánh sáng điển quang tâm linh và thanh tịnh trong cái chết lúc còn sống sờ sờ, tâm thân an lạc – hạnh phúc nội tại khỏe vui cho đến lúc Thượng Đế cho bỏ xác trong định luật: “Sanh Lão Bệnh Tử”.
Thưa Thầy tha thứ con viết nhiều làm phiền Thầy. Con rất mong gặp Thầy; Con ao ước điều đó. Mỗi lúc công phu, nắm Pháp thì Tổ Thầy bên con. Con nói rằng Phật Thánh Tiên sống mãi trong tâm mọi người; Xác có hư bỏ, tâm hồn trí tuệ không hư, nó là ánh sáng hào quang bất diệt.
Lễ Thầy tam bái.

Con kính chào Thầy,
TA
 
Thư đi:
Monaco, ngày 16/03/2002

TA,
Thầy vui nhận được thư con đề ngày 08/02/2002, được biết con tu tiến bắt kịp nhịp điển quy không giải tiến. Có Trời có Đất có Đạo là bình an tu tiến.
Mỗi mỗi đều do hành giả thực hành đứng đắn thì sẽ có kết quả ở tương lai. Con càng nhớ Thầy thì con cần gặp chính con nhiều hơn; Trong con có đầy đủ, chỉ có thực hành tự giải mà thôi.
Những triết lý mà con viết trong thư rất đúng. Tu chỉ có hành, không hành thì sẽ không có kết quả tốt.
Chúc con vui tiến.

Quý thương,
Vĩ Kiên
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
121. Ngày 05-03-1999. Người viết: XH
122. Ngày 22-12-1996. Người viết: LTL
123. Ngày 10-07-1996. Người viết: P
124. Ngày 20-08-1994. Người viết: NH
125. Ngày 30-12-1991. Người viết: NKH
126. Ngày 16-10-1994. Người viết: LTC
127. Ngày 14-11-1990. Người viết: NHM
128. Ngày 01-07-1990. Người viết: ĐTTS
129. Ngày 11-06-1990. Người viết: ĐTTS
130. Ngày 10-03-1999. Người viết: VQ
131. Ngày 21-12-1996. Người viết: HTL
132. Ngày 26-07-1995. Người viết: TN
133. Ngày 06-12-1993. Người viết: TVT
134. Ngày 07-05-1993. Người viết: MT
135. Ngày 28-12-1991. Người viết: LHN
136. Ngày 12-12-1990. Người viết: PG
137. Ngày 25-06-1994. Người viết: HĐL
138. Ngày 31-08-1990. Người viết: TNM
139. Ngày 23-12-1999. Người viết: LQT
140. Ngày 08-12-1994. Người viết: P Đ
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 3 4 5 6 [7] 8 9 10 11  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: