Thư đến: '... ...Con chứng được cảnh giới bên trên đủ thứ nhưng con cũng không tin là sự thật, con nghĩ coi chừng ma ma, Phật Phật, nó hóa ra để gạt mình...'
NB, ngày 17/09/2001

Thư thăm Thầy,
Sau ngày giải phóng Sài Gòn, con được duyên may gặp được quyển sách tập thiền và thực hành của ông Tám, dạy cách thức tu học.
Rồi một thời gian nghe nói có thiền đường, con đi tìm gặp để trao đổi với nhau tu học. Thời gian sau con chứng được cảnh giới bên trên đủ thứ nhưng con cũng không tin là sự thật, con nghĩ coi chừng ma ma, Phật Phật, nó hóa ra để gạt mình.
Theo như vậy, ông Tám giúp con chuyện có đúng hay sai, có tốt hay xấu, mong Thầy giải cho con hiểu, Thầy giải tỏa sự phiền muộn và sái quấy trong nội tâm của con.
Từ đó đến nay, con không có duyên được gặp Thầy; Vậy hôm nay có duyên gặp Thầy bằng văn tự chứ không phải bằng xác thịt, con có đôi dòng gởi thăm Thầy, sau hàn huyên tâm sự của con, cũng nhờ huynh đệ sang đây để gặp Thầy, nhờ trao lại cho Thầy đôi dòng thương nhớ.

Thầy giờ ở tận Trời Âu
Con thì ở tận trời tây tít mù
Chừng nào con gặp được Thầy
Ngày đó con được vui vầy biết bao
Hàng ngày lòng cứ nao nao
Không biết ngày nào sum họp cùng nhau
Đó là thiên định Thầy trao
Cho con thiên định hồi trào nơi đâu
Chừng nào hội ngộ miền tây
Thầy con gặp lại ấy là huyền cơ
Ngày nào lận đận lờ đờ
Chữ ngu học mãi, chẳng rời lìa xa
Ấy là Thầy mắng Thầy la
Đò chiều chuyến chót, hỡi bầy con chiên
Đó là cái nghiệp oan khiên
Thì con gánh chịu con phiền não chi
Rồi đây cơ chuyển đổi xây
Long Hoa có một hội nầy mà thôi
Bạn con nhiều lắm Thầy ơi
Bây giờ rơi rớt bên lề thiên cơ
Không còn mấy đứa để tu
Nghiệp trần vay trả, đeo mang bên mình
Thôi thì im lặng thì hơn
Nghiệp ai nấy trả, thực thi trở về ./.

Thơ tặng Thầy
Thuyền rồng trở khách sang sông
Qua sông Bỉ Ngạn là điều phước duyên
Gặp nhiều sóng gió triền miên
Thuyền chèo lái vững, tâm thời mới yên
Sư minh hiểu thấu việc này
Năm châu bốn bể, hợp hòa mới yên
Rồi đây thế giới ngửa nghiêng
Cho nên Thầy mới độ rày chúng sanh
Lương dân thế giới hợp tình
Cầu xin Thượng Đế phỉ tình cho con
Con thì ghi tạc lòng son
Mới mong thế giới sống còn ngày sau
Sĩ nhu hiền triết nhiệm mầu
Hòa cùng thế giới, đắp bồi tâm linh
Bình minh mới biết thiệt hơn
Mai ra sống sót, mới là thiện căn
Hằng mong cầu nguyện Bề Trên
Ấy là mới biết lòng son con hiền
Phật Tiên ở dưới trần miền
Giáng cơ bút xuống giáo điều dạy dân

Nam Mô A Di Đà Phật,
Kính Thầy Lương Sĩ Hằng,
Con,
NVC
 
Thư đi:
17/06/2002

VC,
Thư con đã đến tay Thầy đề ngày 17/09/2001, được biết con đang trên đường tu tiến. Cần phải dày công thực hành pháp môn và không thay đổi thì mới phù hợp với chơn lý mà tiến thân; Chẳng cần than thở và cầu mong. Duyên nghiệp nhiều kiếp, có vay thì có trả. Chơn tâm chỉ có hành rồi cũng sẽ đến nơi. Tình Trời luôn luôn rộng mở trong lúc đau khổ. Ngộ chơn lý tức là ngộ Thầy. Về Không là chánh pháp.

Thầy ôm gánh nặng trần gian
Thực hành phục vụ vượt sang đạo đời
Lo tu tiến hóa hợp thời
Gắng liền Trời Phật đời đời dựng xây
Xa xưa cho đến ngày nay
Trong tu có tiến vui vầy cảm giao
Tình thương ban rải đổi trao
Trong không mà có bước vào càn khôn
Tình đời đen bạc ác ôn
Giết nhau không kể vía hồn Trời ban
Lệ rơi tuôn chảy hai hàng
Tràn đầy uất khí bàng hoàng nội tâm
Lý Trời siêu diệu thậm thâm
Đại Bi ban chiếu tự thầm nhận thôi
Chẳng còn lý luận sang tồi
Về ngôi thanh nhẹ tái hồi đường tu
Thực hành thanh tịnh như ngu
Mặc ai tranh chấp vẫn tu vẫn hòa
Dù cho nguyên khí gần xa
Trời ban tình đẹp vẫn là quý thương
Chuyên tu tự mở tâm đường
Yêu thương muôn loại gieo gương thế trần
Nguyện tu đóng góp một phần
Giải phần mê chấp lần lần tiến lên
Cõi Trời có sẵn đạo nền
Quy y Phật Pháp tự quên thế tình
Thực hành tự giác tự minh
Hành trình mở rộng hướng khuynh Phật Trời

Quý thương,
Vĩ Kiên
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
361. Ngày 19-02-2000. Người viết: NMT
362. Ngày 14-01-2000. Người viết: L
363. Ngày 20-08-2002. Người viết: N
364. Ngày 16-07-2002. Người viết: DH
365. Người viết: TVD
366. Ngày 19-09-2002. Người viết: HS
367. Ngày 15-09-2001. Người viết: TTĐ
368. Ngày 11-10-2001. Người viết: TQM
369. Ngày 30-06-2001. Người viết: DVH
370. Ngày 02-09-2001. Người viết: TM
371. Ngày 16-12-2001. Người viết: LVT
372. Ngày 11-10-2001. Người viết: ĐMT
373. Ngày 21-05-2002. Người viết: TVH
374. Ngày 26-12-2001. Người viết: TVH
375. Ngày 09-12-2001. Người viết: NKL
376. Ngày 10-03-2003. Người viết: NND
377. Ngày 16-05-2003. Người viết: PTTT
378. Ngày 09-01-2002. Người viết: NTNH
379. Ngày 29-09-2001. Người viết: NM
380. Ngày 13-01-2007. Người viết: LTL
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 15 16 17 18 [19] 20 21 22 23  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: