Thư đến: '... Con cảm thông được sự nhẹ nhàng của tâm hồn,..'
Pháp, Toulouse, ngày 7 tháng 4 năm 1999

Ðức Phật Thầy kính thương,
Con và Bà N vô cùng cảm động cùng đội ơn Ðức Phật Thầy (ÐPT) khi nhận được thư của Người, trong lúc ÐPT bận biết bao nhiêu là công việc, vậy mà Người vẫn nhớ đến chúng con. Chúng con chẳng biết làm gì hơn là cúi xin Ơn Trên ban nhiều ân điển đến ÐPT, để Ngài được luôn luôn mạnh khỏe và chúng con tự hứa sẽ cố gắng tu học để làm Người vui, ngõ hầu được đền đáp lại một phần nào cái ơn nghĩa cao dầy mà ÐPT đã ban bố cho chúng con.
Riêng phần con, con noi theo gương lành của ÐPT. Con đã vay pháp nên tùy theo trình độ của con, con tuần tự trả pháp. Con biết đến đâu con chỉ dẫn tận tình cho những bạn đồng hành với con đến đó, khi họ gặp con. Vì vậy những vị lớn tuổi hơn con hay bằng tuổi con, họ thực thi ba pháp quý này rất có kết quả. Tuy nhiên có một vị, người đó là ai thì con biết chắc ÐPT đã biết rồi, con đã luôn luôn nhắc nhở từ khi con đến ở đây, là nên niệm Phật nhiều, phải có tinh thần tự chủ, tuyệt đối không cầu xin, van vái để được phù hộ, đó là những lời ÐPT luôn luôn nhắc nhở chúng ta. Nhưng rất tiếc con không thành công trong vụ này, con biết rằng con chưa đủ trình độ về điển quang để thuyết phục đối phương, hoặc hơn thế nữa, là biết đâu đó là bài học mà Bề Trên đã dành cho vị đó.
ÐPT ơi! Khi con nhìn ánh mắt của Người qua cái nhìn Người ban bố cho vị này, khi Người ấy lên đảnh lễ Người trong buổi hợp vừa qua tại Thonon_les_Bains, thì lòng con rưng rức. Con đọc được trong ánh mắt ấy bao nhiêu là lời dạy dỗ, buồn thương, cho nên con cảm xúc được bài thơ "Ánh Mắt Người Thương", con kính dâng lên ÐPT. Con liên tưởng đến 20 năm về trước, khi con vừa chập chững vào Ðạo, lúc đó con đã 48 tuổi đời, con chưa biết Ðạo là gì, chỉ thoáng hiểu cái nghĩa thông thường của Ðạo trong sự giao dịch ở trường đời mà thôi, hiểu một cách nông cạn thì ngày đầu tiên con được duyên phước gặp ÐPT, và với ánh mắt cảm thương của Người đã làm hồn con nức nở, để rồi sau hơn 13 tháng theo chân Người qua bao trại tỵ nạn, con được nhìn thấy hạnh đức của Người qua sự nhịn nhục, nhẫn nại, từ bi, hỷ xả mà Người đã thể hiện qua những hành động cụ thể để con được hiểu thêm về Ðạo, nhưng còn rất nhiều sự huyền bí cao siêu của đạo pháp nữa mà con chưa có đủ trí để lãnh hội. Rồi thì một sáng tinh sương vào cuối năm 79, Người phải rời thủ đô Phi Luật Tân để đi định cư nơi miền giá lạnh - Quebec, Canada ở, con và C, hai chúng con đều quỳ dưới chân ÐPT, để nhận lãnh những lời giáo huấn, cho chúng con biết trước rằng, trong tương lai chúng con sẽ gặp nhiều hoàn cảnh chông gai, trở ngại, trên bước đường hành hương dài đăng đẳng, phải siêng năng hành pháp. Riêng phần con, Người có nhấn mạnh rằng: Nếu con không tu, đời con còn khổ nữa, khi xuống địa ngục, nếu có gặp được Thầy, Thầy cũng làm lơ ... Và với ánh mắt vô cùng nghiêm nghị đã rúng động hồn con, rồi từ dạo ấy đến nay, mỗi khi con sắp lơ là trong việc hành pháp vì gặp nghịch cảnh làm hao mòn sức lực, thì những ánh mắt từ dịu hiền, trìu mến đến nghiêm khắc, dần dần hiện đến lôi con về thực tại và nung chí con, rồi thì con lại lần mò đi trong sự trả nghiệp quả, từ bao nhiêu kiếp theo sát con cho đến kiếp này. Con nhờ được hưởng những ánh mắt thần diệu của ÐPT, mà hôm nay ngồi viết đôi dòng kính dâng về ÐPT, con cảm thông được sự nhẹ nhàng của tâm hồn, con dửng dưng với thế sự, với sợ hãi, với lo âu, hay nay còn mai mất, đối với con, giờ đây cũng như không có gì quan trọng, mặc dù giặc giả đang nổi lên tứ phía ở Âu Châu. Có phải đấy là đạo không thưa ÐPT?
Nếu phương tiện đến kịp cho con, thì trước hè này con sẽ dời một số đồ đạc cần thiết qua Nouméa. Con sẽ ở Nouméa thời gian ngắn và mình con sẽ qua Úc trước, sau đó, các cháu sẽ qua sau, bằng mọi giá, như lời Người đã dạy con, còn không kịp thì con sẽ đi sau hè này. Con chỉ thưa vắn tắt nơi đây thôi, còn con đã trình với Người qua Ðiển Tâm tương ứng trong đêm khuya thanh vắng. ÐPT trả lời cho con từng ly từng tí một, cũng như con đã được ở cạnh Người, đấy thật là một cái pháp Như Ý, thật là đại phước cho con. Con đã được ÐPT độ cho con đi được một quãng đường rất dài trong việc hành PLVVKHHBPP.
Tiện đây con kính dâng ÐPT bài thơ này. Con họa lại bài thơ Hằng Hữu của Thắng. Con có gửi về Đặc San Vô Vi, nhưng lâu quá con chưa thấy được đăng, có lẽ đã bị thất lạc, nên con gửi về, để ÐPT đọc cho vui.
Cuối thư con kính lời thăm bà Tám cùng gia đình cô T, cô B và các bạn tháp tùng theo phái đoàn của ÐPT. Con xin chúc ÐPT cùng tất cả các vị được thân tâm thường an lạc.

Kính thương,
Con,
XH
 
Thư đi:
Monaco, ngày 22/4/99

XH,
Thầy vui nhận được thư con đề ngày 7/4/99, được biết con đang hồi tưởng lại việc xưa mà tự hiểu được đời là tạm. Sau sự thay đổi cực nhọc của tình đời đen bạc, con lại hiểu được sự nhiệm mầu của tình thương và đạo lý thâm sâu, từ nghịch đến thuận, chung quy cũng phải đi về điển giới, dứt khoát tu tâm dưỡng tánh, sửa mình là chính. Con sẽ trở về Nouméa trước khi đi Úc, từ từ mọi việc sẽ được yên, có chiến tranh thì sẽ có sự thay đổi, từ sự đau thương cho tới sự an bình, loài người phải gánh chịu. Trong lúc quả địa cầu đổi thay, nhưng tâm linh dứt khoát tu tiến là một, sẽ không còn động trong lúc Thiên Cơ chuyển, Ðất Trời đã báo tin trong luật Nhân Quả sắp tới, hiểu được tâm mới yên, chấp nhận mà tiến hóa.
Chúc con và gia đình vui khỏe.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
121. Ngày 05-03-1999. Người viết: XH
122. Ngày 22-12-1996. Người viết: LTL
123. Ngày 10-07-1996. Người viết: P
124. Ngày 20-08-1994. Người viết: NH
125. Ngày 30-12-1991. Người viết: NKH
126. Ngày 16-10-1994. Người viết: LTC
127. Ngày 14-11-1990. Người viết: NHM
128. Ngày 01-07-1990. Người viết: ĐTTS
129. Ngày 11-06-1990. Người viết: ĐTTS
130. Ngày 10-03-1999. Người viết: VQ
131. Ngày 21-12-1996. Người viết: HTL
132. Ngày 26-07-1995. Người viết: TN
133. Ngày 06-12-1993. Người viết: TVT
134. Ngày 07-05-1993. Người viết: MT
135. Ngày 28-12-1991. Người viết: LHN
136. Ngày 12-12-1990. Người viết: PG
137. Ngày 25-06-1994. Người viết: HĐL
138. Ngày 31-08-1990. Người viết: TNM
139. Ngày 23-12-1999. Người viết: LQT
140. Ngày 08-12-1994. Người viết: P Đ
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 3 4 5 6 [7] 8 9 10 11  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: