Thư đến: '... Sau đó mình con ê ẩm, ể oải, có bữa thở Pháp Luân không được, thiền thì không định tâm được, khó chịu phải xả...'
Việt Nam, V, ngày 30 tháng 4 năm 1998

Thầy kính thương,
Con T đã nhận được thư Thầy từ đầu năm, đó là bài thơ dài nói về cuộc đời con, đó là món quà đầu năm, làm con cảm xúc và vui mừng khôn xiết.
Con tạ ơn Thầy quá đỗi thương những đứa con ở quê nhà. Qua những tờ LED Weekly, con cũng cảm nhận những lời vàng ngọc dạy dỗ của Thầy.
Thưa Thầy! Mấy hôm trước con ngủ thấy có một bà bận áo dài vào nhà con với ba thanh niên rồi đưa con sáu viên thuốc tể đen, bảo con uống luyện khí công mỗi ngày hai viên. Con nghĩ uống hay không tùy mình. Thế mấy bữa sau trong lúc thiền định lại như có ai đút vào miệng con cái gì đó và con lại nuốt, liên tục mấy ngày. Có bữa con phải nghiến hai hàm răng chặt cứng, nó không mở hai hàm răng con, đưa qua đưa lại. Sau đó mình con ê ẩm, ể oải, có bữa thở Pháp Luân không được, thiền thì không định tâm được, khó chịu phải xả. Con làm Chiếu Minh, sáng sáng thở Pháp Luân cho sâu, mong giải phần hồn ô trược ác ôn ra, con nghĩ thế. Bây giờ thì đỡ đỡ nhưng khó định lúc thiền định. Con ráng niệm Phật và làm Chiếu Minh nhiều. Các bạn bảo ăn chanh luôn vỏ. Uống chanh con sợ mất máu. Con chỉ biết làm thế thôi, mong Thầy chỉ dạy thêm.
Còn chồng con mất năm nay cũng 9-10 năm, nhưng các bạn nói ổng theo con hoài, làm sao tu. Con nghĩ khi sống chồng con cũng hiền hòa, biết đạo đức, đâu đến nỗi nào, bây giờ có còn theo thì con cố gắng tu, cố gắng niệm Phật thường xuyên, cũng giúp chồng con thức tâm tu theo, có phải thế không thưa Thầy?
Thưa Thầy chỉ bảo cho con thêm để con sáng tỏ trên đường tu học cho tinh tấn hơn. Qua bài thơ con thấy như ước nguyện mình đã đạt thành, phấn khởi và tinh tấn hơn lên, mặc dù những trở ngại cứ dồn dập đến, nhưng rồi ngó lại thấy mình còn ô trược, còn nhiều rác rến chưa quét sạch, những thanh nhẹ ở giai đoạn đầu tự biến mất hết, chỉ còn lại tối đen nặng nề, rồi tự động ráng cố lên, cố lên nữa, rồi lại lấy bài thơ Thầy ra đọc, lại vui và cố cố lên.

Con quỳ con khấn Cha Trời
Cho Thầy có dịp để về Việt Nam
Anh em huynh tỷ chúng con
Ước mong diện kiến thỏa lòng nhớ thương
Ðiển quang Thầy tỏa yêu thương
Như gà mái mẹ quý yêu con bầy
Thầy xòe cánh phủ chở che
Các con bình tĩnh định tâm ngồi thiền
Thầy phủ điển lành chở che cho
Ðịnh tâm con tưởng đỉnh đầu
Có Thầy ở đó kề bên con hiền
Nhớ Thầy con cứ làm thơ
Thương Thầy con cứ lấy bài ra ôn
Ôn đi ôn lại ôn hoài
Ôn cho thanh điển hòa thanh mới vừa.

Kính bái Thầy
Con,
T
 
Thư đi:
Montréal, ngày 16 tháng 6 năm 1998

T con,
Thầy vui nhận được thư con, được biết con đã và đang vui hành PLVVKHHBPP. Con cần niệm Phật khai thông nguyên lý Nam Mô A Di Ðà Phật thì không cần biết chồng theo hay không. Có chồng là có nghiệp. Niệm Phật là giải nghiệp thì tâm hồn sẽ được thanh thản, chỉ có độ chứ không thâu vô nữa. Con không nên lo nghĩ về chuyện không hữu ích cho tâm lẫn thân. Cần phát triển điện năng từ khối óc cho đến cơ tạng, thực hiện Pháp Luân Thường Chuyển giải mê phá chấp thăng hoa tốt đẹp. Học từ bi và thực hiện từ bi là cần thiết, thế gian chỉ có một đạo là Tình Thương, thực hành PLVVKHHBPP là biết thương mình, thương gia đình nhân loại cùng Trời Phật, trung tín và hiếu nghĩa rất cần thiết cho người tự tu tự tiến.

Nhớ con Thầy lại tạo duyên
Giúp con tiến hóa nối liền căn cơ
Cảnh đời không khác giấc mơ
Nay còn mai mất thiên cơ hợp bàn
Bình tâm khai triển nhiều màn
Quy không điển giới thiên đàng ta đi
Cần tu sáng suốt tự truy
Trời là chơn lý uy nghi độ hành
Thực hành hướng thượng tâm thanh
Cảm thông nguyên lý bức tranh của Trời
Tu hành khai triển chơn lời
Trong không mà có đời đời dựng xây
Lui về thực chất vui vầy
Tâm không là đúng, tâm này cảm an
Tự tu tự tiến tự bàn
Ðời là tạm cảnh tâm an thực hành
Chúc con mạnh khỏe tiến nhanh
Thành tâm tu luyện đạt ranh Phật Trời.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
101. Ngày 20-02-1994. Người viết: LTL
102. Ngày 30-07-1994. Người viết: VVH
103. Ngày 08-06-1994. Người viết: LTT
104. Ngày 15-12-1993. Người viết: LHN
105. Ngày 23-10-1994. Người viết: HH
106. Ngày 29-11-1990. Người viết: LPY
107. Ngày 31-07-1994. Người viết: PTH
108. Ngày 16-10-1994. Người viết: LL
109. Ngày 09-07-1990. Người viết: TTV
110. Ngày 15-12-2001. Người viết: TTTT
111. Ngày 30-07-1994. Người viết: TVQ
112. Ngày 10-03-1999. Người viết: PTT
113. Ngày 20-12-1996. Người viết: TQL
114. Ngày 20-03-1996. Người viết: LSĐ
115. Ngày 07-01-1992. Người viết: PBL
116. Ngày 07-03-1994. Người viết: LVĐ
117. Ngày 16-11-1990. Người viết: TLT
118. Ngày 16-06-1990. Người viết: VTKD
119. Ngày 01-12-1994. Người viết: TBK
120. Ngày 02-12-1999. Người viết: NTL
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 2 3 4 5 [6] 7 8 9 10  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: