Thư đến: '... Như vậy họ sẽ thấy hoạt động của anh lúc này ra sao!'
Melbourne, ngày 22 tháng 1 năm 1997

Kính thưa anh Lưỡng,
Vì nay đã đi làm việc lại, thành em không thể đi dự Đại Hội Úc Châu tổ chức ở Sydney được. Nhớ lại những ngày Đại Hội ở Thái Lan, thời gian tuy ngắn ngủi nhưng đầy kỷ niệm và vui thú. Em đã gởi một cuốn video mà em đã quay trong kỳ Đại Hội, qua Paris để chị P xem xong gửi tiếp qua London cho anh chị H xem. Như vậy họ sẽ thấy hoạt động của anh lúc này ra sao! HN con gái chị P cùng hai đứa con, nó hiện ơ Paris thăm bà ngoại. Tụi nó sẽ về lại Sydney ngày 4/2/97 nếu anh còn ở lại Sydney sau ngày đó thì xin anh đưa giùm cho anh C, địa chỉ và telephone của anh để một khi tụi nó về lại Sydney, em sẽ gọi điện thoại kêu con HN đi thăm anh. Ngay sau khi về lại Úc, em đã gọi điện thoại cho chị L, TK và nói với chị những lời anh dặn, kế đó em có gửi cho chị một lá thư, một số tài liệu và chỉ dẫn cách uống và mua OMX tại chi nhánh ở Melbourne. Ngoài ra em có gửi kèm một lá thư mà em viết cho người downline về OMX của em ở Adelaide để cho chị K mượn hai cuốn video về OMX nếu chỉ thấy cần tìm hiểu thêm. Kỳ này anh C mời ông bà Dr Fernando (Ph D in science) chief executive officer của OMX ở Úc Châu, đi Sydney để gặp anh và để thuyết trình về OMX trước Đại Hội nếu cần thiết. Anh C sẽ đem đi khá nhiều OMX. Em muốn nhắc lại với anh là OMX được phép bán tại Úc như là một thực phẩm, thành không tiện nói nhiều về trị bịnh.
Theo kinh nghiệm của em, người già cả và có bịnh nặng khi uống OMX phải tiếp tục uống thuốc của toa bác sĩ và lượng OMX phải gia tăng từ từ để tránh phản ứng quá mạnh nguy hiểm. Một khi có kết quả tốt, sau một thời gian từ từ giảm lượng OMX xuống, thí dụ:
Ngày 1 và 2: Sáng 1 viên, tối 1 viên.
Ngày 3 và 4: Sáng 2 viên, tối 1 viên.
Ngày 5 trở đi: Sáng 2 viên, tối 2 viên.
OMX có một loại skin oil, ngoài thoa da vết lở rất công hiệu, còn có thể dùng cho phong thấp..., đặc biệt là cho hayfever, chảy nước mũi. Sáng dậy xong, mỗi bên lỗ mũi bôi một giọt, hít vô 1,2 lần thì hôm đó sẽ không chảy nước mũi; Nếu có cũng không đáng kể.
Cuối thư em xin chúc anh mạnh khỏe, vui vẻ và Đại Hội ở Sydney thành công mỹ mãn.

Em, H
 
Thư đi:
Sydney, ngày 30 tháng 1 năm 1997

Chú H,
Tôi vui nhận thư chú kể lại Đại Hội Thái Lan và chúng ta đã tương hội và mọi người đều phát tâm muốn làm một điều tốt lành cho người kế tiếp. Như chú đã mang theo thuốc giúp đỡ người khác, còn tôi giảng đạo để mọi người thức tâm để tự thanh lọc lấy sự trần trược của chính mình mà tự tu tự tiến. Chúng ta càng ngày tuổi tác càng gia tăng thì thấy rõ cuộc đời ta đã làm nhiều chuyện không cần thiết. Ngày hôm nay chú hiểu được qua cuộc giảng của chúng tôi, chú thấy phần hồn là chủ của thể xác chứ không phải xác là chủ của phần hồn. Nhưng người đời thì lấy đó để tương trợ lẫn nhau, nhưng mà không hiểu được trực giác của chính mình tức là phần hồn làm chủ thể xác mà lo tu tiến hướng về thanh tịnh thì nó mới sáng tỏ phần hồn. Đó là sự sáng suốt để hỗ trợ và xây dựng cho cơ tạng cuối cùng này được tiến hóa trong thanh nhẹ.
Ngày hôm nay chú đại lý được thuốc này mục đích để làm gì? Mục đích để đưa sự sống cho con người để hiểu cái gì là bạn, cái gì là thù trong một kiếp người. Ngay trong không khí cũng có thể đem được trược khí vào hại thân. Nếu chúng ta người tu có mục đích vô sanh bất diệt thì không có sự hại thân và không có sự mê tín dị đoan. Không khai triển được trực giác của chính mình là sai lầm hết. Tu mà nhờ đỡ không khai triển trực giác của chính mình là tự hủy mà thôi. Thượng Đế đã cho cơ hội cuối cùng chúng ta có cơ thể, có đầy đủ những gì bên ngoài có chúng ta đều có. Có tim gan tỳ phế thận, kim mộc thủy hỏa thổ đó là sự an bài của cả càn khôn vũ trụ và chúng ta lập lại trật tự thì chúng ta mới thấy được màu sắc. Ngũ sắc ngũ quang huyền sắc huyền quang đã ẩn tàng trong tâm thức chúng ta nhiều kiếp không phải một kiếp. Nếu chúng ta thành tâm hành pháp, khứ trược lưu thanh mới là kêu bằng tu. Có giải trược lưu thanh mới đem lại trật tự cho chính ta. Bây giờ ở xứ Úc văn minh này, chú thấy rõ có downtown trật tự hơn, phố tàu không có trật tự bằng downtown tại sao? Vì sự sống cần trật tự để cho mọi người an vui. Xã hội này đã làm được là tiếp tục làm và chúng ta phải làm khai hóa hội nhập trong sự trật tự của cả càn khôn vũ trụ; Đó là chơn kinh, vô tự chơn kinh. Mọi người đã mang xác phàm xuống thế gian mà không có dũng chí, không tạo cơ hội để khai thác chính mình là một điều tăm tối và thua lỗ vô cùng, không phát triển được. Dù có tiền cho cách mấy rốt cuộc hồn xác ra ma chớ không có tiến hóa lên cõi thanh nhẹ được.
Pháp Vô Vi là một pháp để cho mọi người được khai triển tâm thức của chính mình và cảm nhận trực giác của chính mình để phát triển đi tới vô cùng; Đó là ánh sáng rõ rệt hội tụ trong tâm thức của chính chúng ta. Xác của chúng ta có âm có dương, mà nếu chúng ta chịu hướng thượng tu học là hội nhập trong ánh sáng vô biên thì tâm thức mới an yên mà ảnh hưởng người kế tiếp. Chú có duyên lành dự một lần Đại Hội thôi nhưng mà chú cảm thấy thoải mái, chú hiểu được chú nhiều hơn thay vì chú tu nhờ đỡ cúng lạy, rốt cuộc Tiên Phật nào mà chứng cho chú? Tiên Phật là thoát hồn tiến hóa đi tới vô cùng làm sao xuống thế gian phục vụ chúng ta được, nếu chúng ta không chịu đi lên đồng chiều hướng như vậy thì làm sao Bề Trên độ chúng ta tiến được. Bằng chứng rõ ràng nhiều người đã cầu nguyện nhiều năm, cả một kiếp nhưng rốt cuộc nạn không giải được, nạn là bệnh hoạn đó. Ngày hôm nay chú biết vào trong cái giới bệnh hoạn, chú hiểu thế gian đều có những bệnh nan y, tâm làm thì thân chịu không có chối cãi được, dù thuốc tiên cũng tạm mà thôi. Cái gì cũng là tạm, vạn sự trên đời là Không, không có sự thật, không làm được cái gì hết ngoại trừ Thượng Đế. Thượng Đế là ánh sáng vô cùng tận đã ban chiếu toàn cầu và để cho sanh linh tự thức và tự tiến. Nhưng sự sáng suốt của loài người lạm dụng bày ra chính trị, bày ra quyền pháp đủ chuyện hết để trị con người, cố ý trị những người hung ác và để cho người ta hướng thiện nhưng mà không có đường đi tới vô cùng, không hiểu được nên bày ra cúng quảy, cúng quảy cúng quảy, cúng hoài, cúng một lần là giết một con heo, cúng một lần là giết một con gà, mang nghiệp sát mà không biết. Tội nghiệp cho chúng sinh, tập quán không tốt. Cho nên chúng ta phải tu để ảnh hưởng người kế tiếp là vậy. Tu để tự thức, tự khai triển trực giác của chính mình và khai sáng khối óc của Thượng Đế đã ân ban, thành tâm tu tiến, thấy rõ đường đi thì chung vui hòa bình. Cho nên Vô Vi luôn luôn có cuộc sống hòa bình. Sau khi hành thiền mọi người cảm giác đời là tạm, chung vui trong thanh nhẹ, xây dựng dẫn tiến phần điển quang là chánh thức. Cho nên có cuộc sống chung vui hòa bình khắp thế giới là vậy. Tôi một thân một mình như chú đã biết, tiền không có, từ quê nhà cho đến đây cũng vậy thôi, giữ tâm lo tu, không có tiền nhiều như người khác nhưng vẫn đi đây đi đó được, đó là chứng minh Thượng Đế đã ân ban cho chúng tôi, tôi mới có cơ hội. Chính bản thân tôi không làm được, không có khả năng đó, phải có tiền mới đi đây đi đó được, nhưng mà ngày hôm nay chú thấy tình thương của mọi người đã phát triển, chung vui hòa bình, tình thương là tiền bạc, tình thương là giá trị vô cùng thì bây giờ chú đi vào con đường tình thương là làm phước bán thuốc cho người uống hết bệnh là chú tu phước và chú thiền nữa là phước huệ song tu. Nhân thân nan đắc pháp nan ngộ. Cái xác không phải dễ có nhưng mà chú có cái xác và có cái pháp, chỉ thiếu hành mà thôi. Nếu chú hành thì chú sẽ phát triển, gia cang sẽ tốt lên, dẹp bỏ tai nạn trong nội tâm. Chúng ta chịu chung hành chung tiến là một, hội nhập với thanh quang của Thượng Đế mà tiến thì cuộc sống của chúng ta sẽ an nhiên và bất hoại.
Một năm chúng ta đã nhận biết bao nhiêu sự kích động và phản động của ngoại cảnh, ngày hôm nay đã đến bước vào thềm cuối năm tôi xin chúc vợ chồng và gia đình chú được vui khỏe.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu1
 
Vài thư đi thư lại mới đây
101. Ngày 20-02-1994. Người viết: LTL
102. Ngày 30-07-1994. Người viết: VVH
103. Ngày 08-06-1994. Người viết: LTT
104. Ngày 15-12-1993. Người viết: LHN
105. Ngày 23-10-1994. Người viết: HH
106. Ngày 29-11-1990. Người viết: LPY
107. Ngày 31-07-1994. Người viết: PTH
108. Ngày 16-10-1994. Người viết: LL
109. Ngày 09-07-1990. Người viết: TTV
110. Ngày 15-12-2001. Người viết: TTTT
111. Ngày 30-07-1994. Người viết: TVQ
112. Ngày 10-03-1999. Người viết: PTT
113. Ngày 20-12-1996. Người viết: TQL
114. Ngày 20-03-1996. Người viết: LSĐ
115. Ngày 07-01-1992. Người viết: PBL
116. Ngày 07-03-1994. Người viết: LVĐ
117. Ngày 16-11-1990. Người viết: TLT
118. Ngày 16-06-1990. Người viết: VTKD
119. Ngày 01-12-1994. Người viết: TBK
120. Ngày 02-12-1999. Người viết: NTL
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 2 3 4 5 [6] 7 8 9 10  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: