Thư đến: '... Con có nguyện là nếu con có học được con sẽ hết lòng đem tài để giúp đỡ người đời'
S ,ngày 15/01/1991

Kính thưa Ông Tám,
Hôm nay con có vài lời gởi thăm Ông Tám và kính chúc Ông Tám được luôn an mạnh.
Con vì đang học ở Sherbrooke nên không có về Montréal thường, nhất trong mùa đông lạnh này. Lâu quá con không có gặp được Ông Tám, có khi Ông về Montréal con chỉ qua thăm Ông rồi lại đi liền. Con có vài thắc mắc nhưng rất tiếc thì giờ không có, cho nên hôm nay con xin Ông cho con được hỏi vài câu, mong Ông giúp con.
Thưa Ông Tám! Từ khi con có duyên gặp được Ông Tám và Vô Vi, lúc đó con mới 12 tuổi, cho đến hôm nay con 23 tuổi, trong lúc khó khăn mà đời đưa đến, con đều nhớ đến lời dạy của Ông và cố gắng tu tâm sửa tánh, cố gắng học nhịn nhục, thương yêu và hòa đồng với tất cả. Nhưng hôm nay con thấy mình đã làm mất đi một thời gian quý báu chẳng học được gì cả. Đáng lẽ con phải tiến triển nhiều lắm, nhưng ngược lại con cứ để cho đời đảo điên con lên, rồi con buồn và thấy mình vô cùng tủi thân. Có khi con tỉnh, có khi mê, có khi điên khùng. Rồi khi tỉnh lại thì tâm con vô cùng ăn năn, con nhớ đến Ông Tám, đến Trời Phật, nhớ đến nguồn cội, muốn về lắm nhưng không cách nào được thì con lại khóc nhiều lắm. Con tu được hai ba ngày thì hai ba ngày lại loạn lên.
Cũng như bây giờ, ở đại học, mỗi ngày con học chung với những người như tuổi con. Con tiếp xúc họ với tâm hòa đồng và thương yêu. Nhưng con ngược lại không thích bàn luận nhiều về chuyện đời, con hay răng kề răng và niệm Phật để tự chữa lấy bệnh điên của con. Con cũng không thích thức khuya, đi nhảy nhót, ăn nhậu như họ. Khi họ thấy vậy thì họ không thích con nữa và họ coi như con là con người thiếu xã giao và "trop sérieux" không biết ăn chơi. Có khi con cố gắng theo họ đi chơi đây đó, nhưng khi lúc đó thay vì con vui vẻ thì con thấy tâm mình như bị đè ép, buồn bã và tủi thân. Con không hiểu tại sao? Có phải con không biết thật sự hòa đồng và thương yêu là gì, cho nên con mới như vậy.
Còn về việc học hành, vì con ngu si đần độn, học hành rất kém; May gặp được một ông sư phụ rộng lòng nhận con làm đệ tử cho con cơ hội học lên cao. Con tận tâm hết lòng làm việc và học theo như ông thầy con chỉ bảo. Nhưng thấy mình quá ngu, không làm sao mở được trí óc thì con lại buồn, mỗi ngày con phải cố gắng đấu với chính con để mới học được. Và như vậy con rất mệt mỏi, thần kinh suy nhược, nhất là khi cơn chán nản lên thì còn tệ hơn nữa.
Con có nguyện là nếu con có học được con sẽ hết lòng đem tài để giúp đỡ người đời cũng như con đã được người đời giúp con trong lúc mà con thấy mình không còn cơ hội nào nữa. Nhưng Ông Tám ơi! Làm sao con có thể thành công khi con đang nửa điên nửa tỉnh.
Con nghe băng Ông giảng, con hiểu là cuộc đời này chỉ là tạm bợ thôi, xuống đây là để học hỏi, phải gặp động thì mới biết và tìm được tịnh. Nhiều khi con chỉ ước được cuộc sống yên tịnh như người nhà quê, sống qua ngày. Nhưng hoàn cảnh đưa đến và thúc đẩy con phải tiến lên, tiến lên cao hơn sự thông minh của con, có khi con sợ, không hiểu con có tiến đúng hay tiến vào con đường vật chất ăn thua của khoa học ngày nay.
Lâu rồi con muốn hỏi Ông những điều thắc mắc này, nhưng mỗi khi muốn nói ra thì con lại đổ lệ không sao nói được. Con không hiểu tại sao lúc này con hay khóc nhiều lắm, có khi đến 5 đêm liên tiếp khóc lóc, con tìm Cha Trời, tìm Phật, tìm bạn trong tâm, nhưng chỉ thấy có cô đơn và tự khuyên mình là tình cảnh cuộc sống đâu có gì mà để cho khóc lóc.
Con xin Ông tha thứ cho con đã làm phiền Ông trong lúc nghỉ ngơi, con biết việc làm của Ông rất là cực nhọc. Nhưng trong cơn chán nản vì nhờ những lời khuyên của Ông qua băng cassatte, qua kinh sách mà con không nản chí và cố gắng cho đến ngày nay. Cố gắng giữ tròn hiếu đạo với cha mẹ, thương yêu cuộc sống này. Mong rằng kiếp này con sẽ có cơ hội giúp đời và tạ ơn Trời Phật đã ban phước cho con được cơ hội để học hỏi.
Con xin cảm ơn Ông Tám và xin kính chúc Ông Tám và Bà Tám qua xuân mới được dồi dào sức khỏe và vạn sự bình an.

Kính thư,
Cháu, T
 
Thư đi:
Ngày 30/1/1991

T con,
Ông Tám đã nhận được thư của con đề ngày 15/1/1991, được biết con đang trên đường tiến hóa của đời lẫn đạo.
Con nên nhận định rõ rệt sự hiện diện của con trên mặt đất này, tức là ánh sáng. Thể xác của con đã và đang được cấu trúc bởi điện năng của vũ trụ. Con ăn cơm mà lớn, nhưng phần hồn đang làm chủ cơ năng này, cho nên con vừa thích tu, vừa thích phát triển về đời khoa học hiện tại. Khi con ý thức rõ rệt vị trí của chính con là ánh sáng thì càng lúc ánh sáng tưởng đến Trời Phật thì ánh sáng càng ngày càng thanh nhẹ hơn. Chỉ có vui và chẳng có buồn. Hiện tại con đang học về ngành y học thì con thấy rõ đầu óc của con tập trung sáng láng thì mới hiểu được nguyên lý của mọi sự việc thì đời đạo lúc nào cũng vui cả. Con không nên bận rộn và cố chấp, không chịu hòa vui với mọi điện năng của chính con và tất cả mọi người. Con nên chỉ biết vui để học, vui để tiến, vui để tận độ thì con mới ý thức được sự học hỏi không ngừng nghỉ, xuất phát từ chấn động của khối óc của con liên hệ với càn khôn vũ trụ đều là không ngừng nghỉ; Chỉ có phát triển và không có thoái bộ. Gần đây ông Tám có giảng nhiều băng nói về ánh sáng, vậy con nên xin mẹ liên lạc với bác Thuần lấy băng về nghe thì tất cả những sự phiền muộn sái quấy của con sẽ được giải tỏa.
Chúc con vui khỏe.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
141. Ngày 07-12-1998. Người viết: T
142. Ngày 20-12-1996. Người viết: TTĐ
143. Ngày 15-01-1991. Người viết: T
144. Ngày 23-06-1996. Người viết: LVL
145. Ngày 01-12-1993. Người viết: NTT
146. Ngày 02-01-1992. Người viết: NVN
147. Ngày 22-12-1996. Người viết: LN
148. Ngày 27-09-1994. Người viết: HVN
149. Ngày 14-09-1994. Người viết: TTN
150. Ngày 29-12-1991. Người viết: LTT
151. Ngày 19-10-1994. Người viết: TTKP
152. Ngày 06-12-1991. Người viết: CTXH
153. Ngày 18-12-1992. Người viết: HKL
154. Ngày 15-12-1991. Người viết: PLL
155. Ngày 26-08-1992. Người viết: TAT
156. Ngày 25-09-1992. Người viết: HNĐ
157. Ngày 08-04-1992. Người viết: H
158. Ngày 26-11-1992. Người viết: TH
159. Ngày 14-12-1992. Người viết: TVP
160. Ngày 17-12-1992. Người viết: PTP
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 4 5 6 7 [8] 9 10 11 12  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: