Thư đến: '... Bây giờ con đã quyết lòng theo đạo, nếu chồng con ảnh không thông cảm được thì tùy ảnh quyết định, ly dị hoặc xa nhau'
S R, 1/7/1990

Kính thưa Thầy!
Đây là lá thư thứ hai con gửi cho Thầy, vì lo không biết lá thư đầu có đến tay Thầy không?
Nơi con ở xa xôi các thiền đường và tu học chỉ có một mình, nhưng lòng lúc nào cũng cố gắng và quyết tâm đi theo con đường đạo. Mới đây con đã liên lạc với thiền đường ở San Jose để làm quen với các huynh tỷ trong đạo và xin một số sách vở, tài liệu, băng giảng của Thầy để học hỏi thêm, hầu giúp cho tâm linh sớm phát triển.
Về phần mẹ con ở Việt Nam, tu thiền đã 10 năm về trước, chắc Thầy còn nhớ. Mẹ con lúc nào cũng nhắc nhở tới Thầy với một niềm thương kính vô biên và mẹ con có nhờ con xin với Thầy tặng cho mẹ con một bài thơ. Nay mẹ con nghe tin con đã ngộ được pháp lý, người rất vui mừng và mong con luôn giữ vững con đường đạo để tìm được cái chân hạnh phúc bất diệt đời đời. Con có gửi về cho mẹ con mấy tấm hình của Thầy chụp ở bên Úc và bên Phi, lúc đi thăm bạn đạo ở Philipines, mẹ con mừng lắm.

...phải ly dị mỗi đứa một đường. Mọi người xung quanh nhìn con với cặp mắt lạ lùng vì họ không hiểu sao con có thể bỏ chồng để đi theo đạo. Thầy ơi! Bao nhiêu tác động của ngoại cảnh, nhiều lúc làm con đau buồn quá. Nhưng con cố gắng vượt qua, trong ngày những lúc rảnh rỗi con mở băng giảng của Thầy để nghe, để hướng dẫn tâm thức dần theo nẻo chánh, bỏ đi những động loạn làm tâm thức mình không hướng thượng được. Bây giờ mỗi đêm, con ngồi được từ 1 tiếng đến 1 tiếng 30 phút, con soi hồn đã khá hơn trước, lâu được 15 phút, bớt mỏi, tuy nhiên từ cùi chỏ đến các ngón tay thường hay nóng lên và tê rần. Con tập trung để nghe tiếng điển nổi lên trong đầu và đã dần gạt bỏ được những ngoại cảnh ban ngày.
Lúc vào thiền định, con ngồi một lúc lại phải mở băng niệm Phật của Thầy mới ngồi lâu được. Con biết làm như vậy là chưa rõ được trình độ của mình, nhưng con muốn nghe niệm lục tự bên tai để dần dần cho tâm thức được định hoàn toàn rồi bỏ băng. Nhưng không hiểu sao, lúc này khi vào thiền định, đầu óc con trống rỗng, có lúc con quên cả niệm lục tự theo Thầy tuy con vẫn tỉnh chứ đâu có ngủ gục, đôi khi bị lắc nhẹ. Nhiều lúc con muốn tập trung tư tưởng lên đỉnh đầu và niệm lục tự nhưng không được. Con cố gắng đã nhiều đêm và hôm nay lại mạn phép hỏi nhờ Thầy giải đáp. Như vậy là con tiến hay lùi? Đầu óc con nó cứ trống rỗng, không có một ý niệm gì cả, Thầy ạ!
Con mong muốn sao cho mình luôn giữ vững được ý chí đi theo con đường đạo. Trước đây con không ăn chay được, nhưng từ ngày thiền đến nay con quyết định trường chay và không còn thèm muốn gì thịt cá nữa. Gần đây, ban ngày con cảm thấy mỏi mệt và làm như thiếu ngủ. Lúc ngồi, đứng thường bị xây xẩm cả mặt mày. Như vậy là do lúc thiền, con làm chưa đúng cách hay tại con bệnh hoạn gì hở Thầy?
Con đã liên hệ được với thiền đường anh Vĩnh ở San José để nhờ giúp đỡ, xin một ít sách vở, băng giảng để nghe thêm. Tu phải tiến chớ không được dậm chân một chỗ, phải không Thầy. Các anh các chị trên thiền đường rất vui lòng đón nhận một đứa em đang quay về nguồn cội. Con cảm thấy vui mừng khi mình đã thật sự hòa nhập vào với các anh em trong tình huynh đệ tỷ muội một nhà. Chị Tâm ở thiền đường hứa khi nào Thầy qua sẽ dẫn con lên thiền viện với các anh chị. Nhiều lúc con cứ nghĩ phải chi con đừng có gia đình, con sẽ lên thiền đường ở luôn sinh hoạt bên các huynh tỷ, có lẽ tu sẽ mau tiến lắm. Con còn nặng nợ đời quá phải không Thầy, chuyện gia đình vẫn còn rối rắm, chưa dứt khoát. Bây giờ con đã quyết lòng theo đạo, nếu chồng con ảnh không thông cảm được thì tùy ảnh quyết định, ly dị hoặc xa nhau.
Thầy ơi! Con còn u tối quá, xin Thầy từ bi giúp con được sáng suốt trước những quyết định quan trọng của cuộc đời. Con mong Thầy sẽ thương và hồi âm cho con, ân ban cho con những hồng ân điển lành trên con đường tu luyện. Kính mong Thầy được dồi dào sức khỏe.

Kính thư,
ĐTTS
 
Thư đi:
Montreal, ngày 24 tháng 9 năm 1990

T S,
Trong lúc Thầy an dưỡng, đã nhận được liên tục ba lá thư của con, muốn giải tỏa những nhồi quả trong tâm để thực hiện đến sự thanh tịnh cho chính con. Đối với việc gia đình thì phải ý thức được duyên lành, đó là định luật vay và trả của tình đời để sớm thức tâm. Ở thế gian này, có vay và trả mới học được chữ nhịn nhục thật sự. Từ đó sẽ tiến dần tới con đường đạo pháp trong tâm thức. Ngày hôm nay con có duyên lành tái hội chồng con và nhờ đó sự kích động và phản động dẫn con tiến tới đường đạo xa xưa từ tiền kiếp, nay cũng hội ngộ để con tự thức và tiếp tục tu thêm.
Tu về Vô Vi là thực hiện khai mở điển giới của bộ đầu, tức là sẽ về không, không mê không chấp mới thành đạo. Con đã có cả hai, nhưng tâm con con giữ, chả có một người ở thế gian có thể ăn cắp cái tâm con được. Sửa được tâm và về với chơn tâm thì sẽ cứu tất cả. Khi con cảm thức được điều này, con sẽ quý tất cả những sự phản động và kích động ở xung quanh con. Tuy con có xác thân, nhưng hồn con làm chủ, chứ không phải xác làm chủ. Xác thì chỉ biết chấp mê mà thôi, còn tâm thì chỉ biết tha thứ và thương yêu; Người tu phải dùng tâm làm chánh, nhiên hậu mới có cơ hội khơi dậy điểm từ bi của chính mình mà tiến. Con nên cảm ơn những gì kích động xung quanh con, hòa tan với nó thì con mới thật sự trở về với sự thanh tịnh. Thế gian vô nan sự. Ở đời này chẳng có gì khó cả, nhưng chỉ có sự nhịn nhục là cần thiết. Chư Tiên chư Phật cũng nhờ sự nhịn nhục mà đạt thành. Con thương yêu con, con mới chịu tu vì tu là cứu tất cả, không còn phụ một ai. Con sẽ vui và hòa ái tương thân với tất cả vạn linh tong vũ trụ sau khi thành đạo. Con hiểu được nguyên lý này thì con sẽ nắm được cây thước để đo lường trình độ tu học của chúng sanh.
Còn lúc con thiền và cảm thấy không yên ổn thì con nên nghiên cứu lại thức ăn, vì sự ăn uống rất quan trọng. Thâu món ăn mất trật tự vào thì cơ tạng không yên ổn được. Ăn chay là một phương thức điều dưỡng cơ tạng, cũng phải ăn cho nó đúng; Không nên ăn rau sống, trái cây. Nó có thể tạo chất men xông lên bộ đầu làm cho trí óc thiếu minh mẫn, đó cũng là từ bộ ruột mà ra. Còn bệnh của con là chỉ có "xúc ruột" mới trị hết được. Bộ ruột dơ mới sanh ra bệnh trĩ và bón. Con nên hỏi lại thiền đường tìm chỗ xúc ruột cho nó đỡ.
Còn về phần má con, người đã được tu nhiều cũng nhờ sự kích động của ba con, càng kích động mà càng bí thì chỉ biết nhớ Trời Phật cứu giúp mà thôi. Cho nên má con mới có duyên lành với đạo.
Dưới đây là bài thơ của má:
Đỗ giáng trần điêu luyện xác thân
Thị hòa tâm sự tự phân lần
Vân tan vân tựu tùy duyên thức
Khổ cảnh trần gian, xét xét phân

Xét phân đời đạo bao lần
Trong không mà có tối cần dựng xây
Cảnh trời thanh thản mây mưa
Dạy cho học đạo từ nay thức hồn
Vạn linh cũng vẫn sanh tồn
Điển khai tâm đạo ôn tồn dựng xây
Nguyện trao tâm thức với Thầy
Đời là tạm cảnh vui vầy cảm giao
Vạn linh biến đổi sắc màu
Quy nguyên một mối trước sau dung hòa
Điển hòa thanh thản do ta
Tâm ta khai mở tình Cha trong người
Chỉ tu và biết vui cười
Cửu huyền thất tổ an vui đời đời
Càn khôn vũ trụ tình Trời
Ban ơn không ngớt độ lời nôm na
Chúng sanh học có chữ hòa
Bền tâm nhịn nhục thiết tha độ đời
Càng tu thức giác hợp thời
Trở về thực chất đời đời yên vui
Bình tâm học hỏi đạo mùi
Rèn trui tự tiến an vui tâm hồn
Càn khôn vũ trụ sanh tồn
Độ tha tự thức giữ hồn về quê ./.

Chúc con vui khỏe.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng

PS: Mỗi khi ăn con nhớ nên nhai cho kỹ, đồ ăn hòa với nước miếng mới nuốt và thường ăn hột kê (millet) thay cơm để trị bệnh táo bón. Hột kê rất tốt cho các tạng tỳ.
OngTamVietThu1
 
Vài thư đi thư lại mới đây
141. Ngày 07-12-1998. Người viết: T
142. Ngày 20-12-1996. Người viết: TTĐ
143. Ngày 15-01-1991. Người viết: T
144. Ngày 23-06-1996. Người viết: LVL
145. Ngày 01-12-1993. Người viết: NTT
146. Ngày 02-01-1992. Người viết: NVN
147. Ngày 22-12-1996. Người viết: LN
148. Ngày 27-09-1994. Người viết: HVN
149. Ngày 14-09-1994. Người viết: TTN
150. Ngày 29-12-1991. Người viết: LTT
151. Ngày 19-10-1994. Người viết: TTKP
152. Ngày 06-12-1991. Người viết: CTXH
153. Ngày 18-12-1992. Người viết: HKL
154. Ngày 15-12-1991. Người viết: PLL
155. Ngày 26-08-1992. Người viết: TAT
156. Ngày 25-09-1992. Người viết: HNĐ
157. Ngày 08-04-1992. Người viết: H
158. Ngày 26-11-1992. Người viết: TH
159. Ngày 14-12-1992. Người viết: TVP
160. Ngày 17-12-1992. Người viết: PTP
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 4 5 6 7 [8] 9 10 11 12  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: