Thư đến: '... Vợ chồng em và cháu P vẫn tiếp tục tu... Lúc nào anh có gởi cho em xin một lọ thuốc ấy để thoa cho cháu...'
Quy Nhơn, ngày 21/2/82

Kính anh chị,
Em đã nhận được thư anh đề ngày 27/10/81, được biết anh du thuyết ở Mỹ về và bệnh tình của anh đã bình phục, hai em rất mừng.
Số thuốc, vải soa đen, anh gởi cho em, em đã đi Ðà Nẵng nhận đủ rồi. Nhận ngày 11 tháng giêng năm 82. Em đã trả lời thư ngay hôm ấy và em vừa nhận được gói bưu phẩm nhận tại bưu điện Quy Nhơn ngày 12 tháng 1 năm 82, ông PCT ở Pháp gởi tặng. Ông ấy cũng là đạo hữu của em và anh. Có trả lời thư cảm ơn ông và tất cả đạo hữu đã có lòng tưởng mến gia đình em.
Vợ chồng em và cháu P vẫn tiếp tục tu. Em ngồi thiền cũng đã lâu mà cũng chưa có xuất điển đi được. Em ước gì được gần anh để tu tập cho được mau xuất điển. Em thiền có khi thấy sáng và có khi thấy tối. Em bị hai ngón tay ở bàn tay trái, nếu ngồi lâu, để tay trên bắp đùi lâu, nó làm tê hết cả bàn tay, thấy khó chịu lắm, nên không thể ngồi lâu đến một tiếng đồng hồ được. Em đang châm cứu chữa trị, chưa được hết. Còn cháu P và ba của cháu cũng thường thấy sáng chưa có xuất hồn được. Em cố gắng để có ngày xuất hồn được gặp Ðức Phật mới toại nguyện.
Anh H thường bị đau lưng, anh bảo em viết xin anh chai thuốc bổ thận hoàn thuốc Trung Quốc, một chai dầu HongKong. Lúc nào anh có gởi thuốc cho ảnh thì gởi luôn. Anh cho em xin một lọ thuốc trị bệnh bị ngứa chảy nước. Cháu H, cháu P bị bệnh ấy. Em chữa trị đã hai năm rồi mà chưa hết bệnh. Vì bệnh hay trở đi trở lại. Cháu chỉ bị ở sau lưng và ở chân, hai miếng tròn bằng hai ngón tay, không bị lan tràn chỗ khác. Lúc nào anh có gởi cho em xin một lọ thuốc ấy để thoa cho cháu. Xin cảm ơn anh chị.
Em xin kính chúc anh chị, vợ chồng cháu Tuyết nhiều may mắn và khỏe mạnh.

C
 
Thư đi:
Montréal, ngày 8/4/82

Cô C,
Anh đã nhận được thư của cô đề ngày 21/2/82, được biết cô đã nhận được quà của tui gởi về. Tại Canada, họ chỉ cho gởi bưu phẩm với 500 gram thôi. Nếu gởi hơn thì phải gởi Ðà Nẵng hay Sài Gòn. Hệ thống này của chính phủ VN tổ chức. Từ Pháp gởi đi thì có thể gởi đến 2 ký. Nếu cô cần gì nên gởi thư cho chú T, nhờ chú mua gởi và tính tiền cho anh cũng được.
Hôm nay anh gởi 500 gram thuốc thông thường và thuốc ngứa qua bưu điện tại đây. Hiện tại có thiền đường khắp các nơi trên thế giới.
Sau cuộc du thuyết của anh đã khuyến khích mọi người thực hiện tình thương và đạo đức, mọi người đã ý thức rõ là chúng ta đang được sống dưới sự bảo trợ của Thượng Ðế. Ðồng thanh hướng thượng lo tu luyện để sớm trở về với nguyên căn nguồn cội. Kể cả người ngoại quốc lẫn VN, đều thương yêu nhau trong nhịp thở của Thượng Ðế ân ban.
Vài tuần nữa anh lại phải đi thuyết giảng nhiều tiểu bang tại Hoa Kỳ. Kế đó sẽ đi Pháp, Phi và Úc Châu. Vì chu trình xây dựng niềm tin chưa chấm dứt, bắt buộc anh phải tiếp tục vì người cho đến hơi thở cuối cùng của anh. Con người còn mang thể xác là còn bệnh, thức tâm thì mới dứt bệnh. Cô dượng và cháu tự đạt được ánh sáng là đại phước nên giữ lấy niềm tin sẵn có của chính mình mà tự đạt tới sự thanh tịnh và sáng suốt. Khi chúng ta bỏ xác ra đi với sự thanh tịnh và sáng suốt thì mới tiến tới nơi ước nguyện được.
Anh đi làm việc ngày lẫn đêm, không có thì giờ rảnh, nhưng vẫn chưa thỏa mãn nhu cầu của các nơi. Với tuổi cao niên của anh mà vẫn làm việc được thì cũng do Thượng Ðế ân ban và Chư Phật hộ trì, anh mới được khỏe mạnh mà tiếp tục tu để thức, để khai triển tâm linh đến vô cùng tận, thì làm việc như không có làm. Cô dượng đang mang một gánh nặng nghiệp trần nhưng chịu tu thì sẽ từ từ được giải nghiệp. "Thế gian vô nan sự, bá nhẫn thành kim thị thái hòa". Rốt cuộc rồi đâu cũng vào đó.
Hôm trước tui ở HongKong có gởi tiền về cho cô 500 HongKong dollar. Khi nhận được, cô nên viết thư báo tin cho tôi hay, tôi sẽ chuyển từ Canada đi.
Chúc cô dượng và các cháu vui khỏe.

Anh,
LSH
OngTamDocThu
 
Vài thư đi thư lại mới đây
441. Ngày 29-04-1995. Người viết: CTL
442. Người viết: Y
443. Ngày 12-01-2001. Người viết: NTN
444. Ngày 03-11-2001. Người viết: MN
445. Ngày 08-05-0000. Người viết: C
446. Ngày 13-09-2001. Người viết: ĐTT
447. Ngày 12-09-2001. Người viết: TH
448. Ngày 20-06-2001. Người viết: LVT
449. Ngày 06-10-2001. Người viết: TTTT
450. Ngày 28-06-2001. Người viết: NVN
451. Ngày 05-01-2001. Người viết: HTH
452. Ngày 17-09-2001. Người viết: PC
453. Ngày 12-09-2001. Người viết: HH
454. Ngày 13-08-2001. Người viết: MH
455. Ngày 26-01-2002. Người viết: CPC
456. Ngày 14-08-2001. Người viết: Thiền Đường Dũng Chí
457. Ngày 03-08-2001. Người viết: TTTL
458. Ngày 19-07-2001. Người viết: TMĐ
459. Ngày 15-08-2001. Người viết: N
460. Người viết: Lương Sĩ Hằng
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 19 20 21 22 [23] 24 25 26 27  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: