Thư đến: '... Ở đâu cũng là sống, đã tu thì đừng tính và đã tính thì đừng tu.'
TP HCM, ngày 6/7/81

Kính thưa ông Tám,
Chúng con vừa nhận được gói thuốc của ông Tám do hãng PharmaSelect Coopération gởi cho. Chúng con xin cảm ơn ông Tám rất nhiều.
Khi nhận được giấy báo có gói bưu phẩm từ Canada gởi qua, chúng con rất ngạc nhiên vì không biết do ai gởi cho. Ngay cả khi ra lãnh ở bưu điện, cũng vẫn không được biết rõ tên người gởi. Về đến nhà xem ở ngoài bao giấy mới biết đó là quà của ông Tám. Chúng con rất mừng và rất cảm động vì trong số cả trăm bạn đạo khắp nơi, mà ông Tám vẫn nghĩ đến chúng con và cho quà thì là một chuyện an ủi rất lớn vậy.
Theo giấy kê khai ngày 26/3/81 của hãng PharmaSelect thì trong gói quà gồm có: 1 chai Tyfomycine 250mg 100 viên, 1 chai Ampiciline 500mg 100 viên, 1 chai Tétracyline 250mg 100 viên, 1 hộp Solucortef 100mg 5 chai, 1 hộp Laxid 4mg. Nhưng rất tiếc là hãng này đã gởi trong một bao giấy dầy chứ không có hộp carton, nên bao giấy đã bị rách và người ta đã lấy mất một chai Ampiciline, đó là chai thuốc đáng giá nhất, hiện nay có thể bán được 600 đồng. Chúng con xin nói để ông Tám biết và dặn hãng đó nên rút kinh nghiệm, lần sau nếu có gởi cho ai, nên đựng thuốc trong hộp carton cứng. Mặc dù tiền cước có đắt hơn một chút vì nặng hơn, nhưng tránh được mất mát, vì bao giấy dày không chịu đựng được sự lềnh kềnh của các chai và hộp thuốc bên trong, nên bị rách cả.
Hồi tháng 4/81, chúng con cũng có gởi thư qua thăm ông Tám, không biết ông Tám có nhận được không? Chúng con hy vọng lá thư đó đã không bị thất lạc. Trong thư ấy, chúng con có nói chuyện gia đình chú N đã bán nhà và dự định đi khu kinh tế mới cùng với một số bạn đạo, nhưng việc ấy không thành. Gần đây, chú N có đến chơi và cho chúng con biết ý định đó đã thất bại và nhiều bạn đạo cũng đau khổ lắm. Chú N có cho chúng con đọc một thư của ông Tám dạy rằng: “Ở đâu cũng là sống, và đã tu thì đừng tính. Và đã tính thì đừng tu.” Tất cả chúng con đều lấy đó làm một bài học. Gia đình chú N bây giờ phải đi ở nhờ. Nghe nói cũng cực khổ lắm. Riêng chú N thì vẫn bình tĩnh và chấp nhận hoàn cảnh.
Đã lâu chúng con cũng không nhận được thư của gia đình chị K ở California. Dạo này ông Tám có sang thăm các bạn đạo bên đó không? Thỉnh thoảng chúng con cũng được xem hình ông Tám qua gia đình các bạn đạo gởi về và thấy ông Tám càng trẻ ra. Bà Tám và cô Tuyết có được mạnh giỏi không? Xin ông Tám cho chúng con gởi lời thăm bà Tám, cô Tuyết, gia đình anh chị Y và các bạn đạo khác.
Gia đình chúng con vẫn được như thường và đang chờ xin giấy xuất cảnh. Chúng con vẫn tiếp tục công phu và vẫn tự tu tự tiến. Tuy nhiên, nhiều lúc cũng thấy nhớ ông Tám và các bạn đạo nhiều vì khi còn đi thiền đường thì nhờ điển của ông Tám và các bạn đạo nên việc công phu cũng có phần được dễ dàng và tiến nhanh hơn.
Chúng con kính chúc ông Tám và gia đình được mạnh giỏi luôn và gặp nhiều may mắn. Cho chúng con gởi lời thăm các bạn đạo và lời chúc vạn sự tốt lành.

Kính thư,
HDT
 
Thư đi:
Kính gởi anh chị T,

Vui nhận được thư của anh chị đã báo cho biết rằng anh chị đã nhận được quà của tôi, nhưng rất tiếc vì lòng tham của con người, đã xé ra và lấy những thuốc quý giá. Không phải riêng một mình anh, mà tất cả bạn đạo các nơi mà tôi đã tặng quà đều báo cáo mất những món hàng mắc tiền, nhưng mà món hàng rẻ tiền thì còn nguyên. Chuyện đó là lòng tham của con người phải có. Nhưng mà tôi cũng đã báo cáo cho PharmaSelect và cho PharmaSelect biết rằng phải sửa đổi cái bao bì cho cẩn thận hơn, thì từ đó về sau, họ đã đổi theo carton như anh đã nói.
Kỳ nầy tôi đi Hoa Kỳ du thuyết trên ba tháng để chấn chỉnh tâm thần của mọi người ở hải ngoại đều lâm vào trong tình trạng nhớ quê hương đau khổ. Mọi người bây giờ ý thức được và đã tự chịu tự tu tự tiến.
Ở xứ người luôn luôn có những sự lo âu và phải làm mới có sự sống, và thời tiết cũng khống chế luôn hành động của con người và tư tưởng con người. Cho nên, ở hải ngoại không phải là được dịp sung sướng. Mọi người cũng phải lo làm mới có ăn, rất khổ. Tâm linh càng ngày càng sa sút, đạo đức mất luôn. Vì vậy tôi mới phát tâm đi vòng quanh thế giới thuyết giảng cho mọi người thức tâm trở về với căn bản của chính mình và để biết rõ rằng chúng ta nguyên lai bởi Thượng Đế, bởi Đấng Vô Cùng đã tạo cho chúng ta có một linh hồn sáng suốt.
Cho nên, ngày nay chúng ta tu bổ, sửa chữa để vun bồi sự sáng suốt đó, để trở về với vô cùng vô tận. Hồn của chúng ta bất diệt, cơ thể của chúng ta là tạm mà thôi. Những việc làm hiện tại của mọi người khắp thế giới đều là hướng ngoại, không thấy hướng nội, thành ra sự đau khổ dồn dập vào nội tâm rất nhiều. Chính anh là người đã được cải tạo và tôi cũng là người đã được cải tạo. Chúng ta thông cảm nhau và hiểu rõ con người phải biết tự sửa và quyết tâm tự sửa mới thấy rõ con đường tiến hóa của nội thức.
Cho nên ở hoàn cảnh nào chúng ta cũng sống được, ở nơi nào chúng ta cũng thực hiện được tình thương. Sự thật thà mới là quý giá. Cho nên, càng ngày càng lớn, càng tu, càng tự cải tạo và bị đời cải tạo chúng ta mới thấy rõ rằng chúng ta nguyên lai bởi một điểm linh quang sáng suốt, rồi chúng ta phải vun bồi điểm đó để trở về với nguyên căn Đại Hồn ở Bên Trên. Việc đó, chính bản thân tôi đã thực hiện và đã chấp nhận. Sau khi được cải tạo, lại được đi kinh tế mới, sống cảnh bơ vơ đối với mắt phàm, nhưng mà thực chất đã trở về với căn bản. Lúc nào tôi cũng hoan hỷ và chấp nhận trong tình cảnh đó. Cho nên ngày tôi được ra đây cũng là ở trong tình trạng lo sự tu bổ sửa chữa để tiến hóa, chứ không phải ra đây để hưởng thụ. Không phải ra đây để kiếm cơm. Nhưng vì tình cảnh bắt buộc và Bề Trên đã đưa gởi cho tôi, chúng tôi, gia đình chúng tôi ra đây để ảnh hưởng mọi người thấy rằng: Ta là Thượng Đế, ta là Phật, ta là ma quỷ. Tất cả đều trong ta mà ra. Chớ nếu chúng ta không lập lại trật tự thì không bao giờ thấy ta ở đâu. Cho nên chúng ta tu để lập lại trật tự sống trong lẽ sống, đương nhiên phải có sự sống, thì ở đâu chúng ta cũng sống.
Tôi đã viết thư khuyên chú N, khuyên các bạn đạo phải bình tĩnh tu trong cái cảnh được giải nghiệp hiện tại ở VN, thì mọi người sẽ được thăng hoa và tâm thức chúng ta sẽ đóng góp cho nhân quần tiến hóa và ảnh hưởng tất cả nhân loại ở tương lai. Nhưng mà những người ấy phản lại thì phải gặp phải bài học nặng hơn ở hiện tại. Những bài học đó cũng là trong cái cơ Tiến Hóa. Sau cuộc dãi đãi này, càng ý thức rõ sự sai lầm của chính mình và trở về với căn bản thăng hoa tâm thức thì tôi thiết tưởng mọi người cũng sẽ tự khôi phục ở tương lai, không có gì khó khăn.
Cái cảnh khổ của chú N hiện tại, những cảnh đó tôi đã và đang chấp nhận. Với tuổi quá 50, đi tới xứ người, muốn kiếm chén cơm, khó lắm, không phải dễ đâu, không ai sử dụng mình. Nhưng mà với tình thương và đạo đức, mình đã tự xây dựng thì sự sống trong nếp sống vẫn tiến hóa. Không phải là vật chất có thể cứu mình được, nhưng mà tâm linh mới thật sự cứu mình.
Học nhẫn để thực hiện từ bi là điều chánh. Nên chấp nhận. Vì vậy, tôi ở hoàn cảnh nào cũng xong. Ngày nay đang ở đây nhưng mà ngày mai đi đâu đi nữa cũng vậy đó thôi. Vì ông Trời chưa sập. Tôi đã nói năm 1974, chính anh cũng còn nhớ câu nói của tôi: “Còn Trời, còn Đất, còn Ta là còn thái bình”, thì cứ giữ cái đó thì khắp thế giới chúng ta sẽ được đi và sẽ chứng kiến mọi điều dở hay của quả địa cầu hiện tại. Nhưng mà tâm thức chúng ta luôn luôn trong xây dựng, bình thản trong tiến hóa, thanh tịnh là quý nhứt.
Cho nên phải thiền để lập trật tự và gặt hái phần thanh tịnh, vun bồi sự thanh tịnh để giải quyết mọi sự nan giải của nội tâm. Chính anh là người đã làm điều đó, cũng như tôi. Không biết nói gì hơn, chúng ta đồng hành trong cuộc hành hương hiện tại, tại thế gian. Rồi một ngày đó, tâm linh chúng ta sẽ tương ngộ trong nơi vinh quang và tốt đẹp hơn. Kính chúc anh chị và các cháu được vui khỏe.

Kính thư,
LSH
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
101. Ngày 20-02-1994. Người viết: LTL
102. Ngày 30-07-1994. Người viết: VVH
103. Ngày 08-06-1994. Người viết: LTT
104. Ngày 15-12-1993. Người viết: LHN
105. Ngày 23-10-1994. Người viết: HH
106. Ngày 29-11-1990. Người viết: LPY
107. Ngày 31-07-1994. Người viết: PTH
108. Ngày 16-10-1994. Người viết: LL
109. Ngày 09-07-1990. Người viết: TTV
110. Ngày 15-12-2001. Người viết: TTTT
111. Ngày 30-07-1994. Người viết: TVQ
112. Ngày 10-03-1999. Người viết: PTT
113. Ngày 20-12-1996. Người viết: TQL
114. Ngày 20-03-1996. Người viết: LSĐ
115. Ngày 07-01-1992. Người viết: PBL
116. Ngày 07-03-1994. Người viết: LVĐ
117. Ngày 16-11-1990. Người viết: TLT
118. Ngày 16-06-1990. Người viết: VTKD
119. Ngày 01-12-1994. Người viết: TBK
120. Ngày 02-12-1999. Người viết: NTL
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 2 3 4 5 [6] 7 8 9 10  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: