Thư đến: '... Càng lúc con càng thấy rõ sự sai lầm quá nhiều trong tiền kiếp và ở cả kiếp hiện tại.'
LA, ngày 21/05/2002

Kính Thầy Vĩ Kiên,
Nghiệp thân nhuốm bệnh lòng điên đảo,
Lực bất tùng tâm dạ núng nao...
Ơn Thầy ơn bạn bao giờ trả?
Nửa chừng ... gãy gánh biết làm sao!
Ơn cha..., nghĩa mẹ chưa đền,
Ơn Thầy ơn bạn nỗi niềm luyến lưu.
Hứa tu lòng vẫn cố tu,
Nội công ngoại kích mây mù tứ giăng.
Càng tu càng lúc càng găng,
Lắm khi thất chí lăng xăng sự đời.
Đem vô lòng dạ rối bời,
Nỗi lo thân bệnh chơi vơi tấc lòng.
Lời Thầy căn dặn tâm không,
“Thế gian đô thị giả”, trong lòng khắc ghi.
Khi xưa châm cứu nhiều khi...,
“ Thân mầy yếu lắm ...” còn ghi nhớ hoài.
Bệnh sao cứ bệnh dài dài,
Tâm làm thân chịu tiếc hoài cái ngu.
Ngu nên phải chịu cảnh tù,
Nghiệp thân mang nặng ráng tu giải hòa.
Thưa Thầy! Buồn phiền vì thân bệnh nên con có viết gởi Thầy ít dòng thơ để trút bớt nỗi lòng ưu tư, vì trong nỗi cô đơn con không biết bày tỏ cùng ai.
Càng lúc con càng thấy rõ sự sai lầm quá nhiều trong tiền kiếp và ở cả kiếp hiện tại.
Chính cái bệnh bao tử và yếu tim của con hiện tại cũng là hậu quả của bao sai lầm mà bây giờ con phải chịu. Cái bệnh nhiều khi nó làm cho ý chí bị trì trệ và ảnh hưởng đến sự thực hành thiền rất nhiều.
Cái thân mình đã vậy ..., nhìn lại xung quanh, anh em cha mẹ ..., ai ai ít nhiều cũng đều mang bệnh từ tâm lẫn thân ..., nhiều khi nản quá! Nản nhưng không bao giờ bỏ cuộc. Ý chí con tiếp tục nung nấu để đến một lúc nào đó sẽ là hiện thực.
Con chúc Thầy và bạn đạo nước ngoài được nhiều sức khỏe vui tươi.

Con,
TVH
 
Thư đi:
Montreal, ngày 31/07/2002

VH,
Thầy vui nhận được thư con đề ngày 21/05/2002, được biết con đang lo âu vì bệnh hoạn dây dưa, khó tu khó hòa.
Như con đã hiểu được tâm làm thân chịu; Nếu con tu sửa thì sẽ có kết quả ở tương lai.
Chúc con vui tiến và quên đi bệnh hoạn dây dưa mà thực hành giải nghiệp.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
Vĩ Kiên
OngTamVietThu1
 
Vài thư đi thư lại mới đây
401. Ngày 07-10-2001. Người viết: MTMU
402. Ngày 23-12-2002. Người viết: TL
403. Ngày 10-01-2002. Người viết: NTKC
404. Người viết: MK
405. Ngày 17-02-2003. Người viết: NP
406. Người viết: NP
407. Ngày 13-07-2002. Người viết: NTT
408. Ngày 16-08-2002. Người viết: N
409. Ngày 08-08-2002. Người viết: TTN
410. Ngày 28-08-2002. Người viết: PTPM
411. Ngày 03-09-2002. Người viết: TTAH
412. Ngày 10-09-2002. Người viết: BC
413. Ngày 06-05-2002. Người viết: LKP
414. Ngày 27-03-2002. Người viết: TVK
415. Người viết: VHH
416. Ngày 17-09-2001. Người viết: NVC
417. Ngày 10-06-2002. Người viết: MB
418. Ngày 14-06-2002. Người viết: ĐNTT
419. Ngày 28-10-2000. Người viết: PLH
420. Ngày 20-07-2000. Người viết: NVT
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 17 18 19 20 [21] 22 23 24 25  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: