Thư đến: '... Con rất khổ vì nó, con không biết nói sao để Thầy hiểu. Con kính mong Thầy soi sáng cho nó đi đúng đường...'
S, ngày 17/03/2002

Thầy kính yêu,
Nhân dịp chị MT đi dự khóa sống chung cùng Thầy ở Âu Châu, con có vài hàng kính chúc Thầy pháp thể an khang.
Thầy kính! Lòng con lúc nào cũng nhớ đến Thầy. Càng khổ, càng nghe băng Thầy giảng con lại thấm thía lời vàng ngọc của Đấng Đại Từ Bi như Thầy. Thầy ơi! Con biết phải làm sao khi nghiệp lực đang bao vây con; Con vẫn biết mình tội lỗi thật nhiều, cố gắng tu học sửa mình để ngày sau còn có cơ hội gặp lại vị Cha già kính yêu.
Thầy kính! Hôm trước đại hội con có biên thư gửi đến Thầy, sau đại hội con nhận được thư Thầy trả lời cho con; Con thành thật cảm ơn Thầy. Thầy kính! Con có một thằng con, năm nay 18 tuổi Giáp Tý. Con rất khổ vì nó, con không biết nói sao để Thầy hiểu. Con kính mong Thầy soi sáng cho nó đi đúng đường để làm tròn bổn phận con người là con mừng rồi. Con, NM, biết mình không đức hạnh, chỉ mong Bề Trên soi sáng cho mẹ con của con được sáng suốt đi đúng đường chánh đạo. Tiện đây con kính gửi đến Thầy ..., tùy nghi Thầy sử dụng.
Thầy từ bi tha thứ cho con. Kính mong Thầy đại từ bi tha thứ cho các huynh tỷ muội dù vô tình hay cố ý xúc phạm đến Đức Thầy. Chúng con tha thiết mong Thầy qua Úc Châu thăm lại đàn con ngu.

Kính bái,
Con,
NM
 
Thư đi:
F, ngày 28/03/2002

NM,
Thầy vui nhận được thư con do MT chuyển đến đề ngày 17/03/2002, được biết con vẫn bình an và lo cho đứa con trai. Đó là nghiệp lực giúp con học nhẫn và thường xuyên niệm Phật tự giải trược và độ cho con của con bình an và sớm thức tâm. Làm một hiền mẫu rất cần sự nhịn nhục, tâm từ của con sẽ giúp đỡ cho con của con sớm thức tâm. Nó càng bất hiếu thì đời sẽ dạy cho nó một bài học thấm thía hơn. Con nên an tâm trì niệm lục tự, nó sẽ hóa giải trần tâm và dũng mãnh tu tiến thì mọi sự sẽ bình an.
Chúc con và gia đình vui tiến.

Quý thương,
Vĩ Kiên
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
461. Ngày 07-07-1982. Người viết: NQH
462. Ngày 05-06-1982. Người viết: KH
463. Ngày 03-06-1982. Người viết: CVS
464. Ngày 21-06-1982. Người viết: TNBN
465. Ngày 31-05-1982. Người viết: D
466. Ngày 16-06-1982. Người viết: Bà Mẹ Cô Nhi
467. Ngày 24-08-2000. Người viết: Lương Vĩ Kiên
468. Ngày 30-12-1999. Người viết: PTN
469. Người viết:
470. Ngày 19-01-2000. Người viết: TVL
471. Ngày 05-04-1982. Người viết: NK
472. Ngày 01-03-1982. Người viết: NTH
473. Ngày 05-12-1999. Người viết: ĐTC
474. Ngày 27-03-1982. Người viết: LMH
475. Ngày 30-04-1982. Người viết: NVT
476. Ngày 02-01-2000. Người viết: NĐC
477. Ngày 14-01-1999. Người viết: Lương Sĩ Hằng
478. Ngày 08-11-1997. Người viết: PTN
479. Ngày 07-10-1997. Người viết: NNT
480. Ngày 04-09-1997. Người viết: NVQ
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 20 21 22 23 [24] 25 26 27 28  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: