Thư đến: '... Đôi khi con muốn nói thật lỗi lầm của mình nhưng con sợ làm nhơ đạo pháp'
B, ngày 29/09/2001

Thầy kính yêu,
Nhân ngày đại hội sắp tới, con viết lá thư này nhờ chị H kính trao Thầy. Đầu thư con kính chúc Thầy pháp thể an khang và sinh nhật Thầy có thật nhiều đứa con biết quay về bến giác.
Thầy ơi! Con biết chỉ có như vậy thì Thầy mới vui thôi. Bao năm học đạo, con hiểu rất rõ tình thương Thầy ban cho chúng con bao la như biển cả. Nhưng Thầy ơi! Nghiệp lực của chính bản thân con quá sâu dày, con đã không thoát khỏi cảnh vay trả của cuộc đời, để rồi con vấp ngã trên đường tình ái. Con thật xấu hổ khi làm người không trọn thì thiên đạo sao thành. Đối với con Vô Vi là pháp quý; Nhờ có hành pháp mà con được hiểu rõ mình hơn. Đôi khi con muốn nói thật lỗi lầm của mình nhưng con sợ làm nhơ đạo pháp; Tội con làm con chịu gánh lấy chỉ mong sao Trời Phật độ con qua khỏi bến mê của cuộc đời. Dù đúng hay sai, đêm đêm con vẫn hành thiền không dám bỏ; Mỗi buổi sáng lạy kính Vô Vi 50 cái; Vẫn hướng tâm về Tổ Thầy; Nguyện nhờ pháp lực giải nghiệp lực.
Thầy kính yêu! Đôi khi con ngửa mặt nhìn Trời mà lệ tuông trào. Tại sao cho con học bài nặng quá, rồi con tự biết rằng đây là cơ hội cho con quán thông và buông bỏ, nhưng con vẫn không gánh nổi, Thầy ơi!
Vài hàng kính trao Thầy nỗi lòng của con; Thiết tha nhờ Phật lực soi sáng sự si mê tăm tối của con. Khi nhận được thư này, nếu Thầy rảnh và khỏe, xin Thầy viết riêng cho con ít lời dạy bảo vàng ngọc. Con thành thật cảm ơn Thầy.

Đứa con ngu si,
NM
 
Thư đi:
A, ngày 11/11/2001

NM,
Thầy vui nhận được thư con đề ngày 29/09/2001, được biết con đang vấn vương trong nguyên lý dâm dục, nghiệp lực trì kéo lận đận lao đao. Cần sự dứt khoát của chính con thì mới có cơ hội tự cứu. Trược khí lúc nào cũng không dứt khoát; Nó sẽ diễn ra nhiều việc rắc rối cho chính con. Muốn tu tốt thì cần sự dứt khoát thực hành pháp môn.
Mong con tự thức.

Quý thương,
Vĩ Kiên
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu1
 
Vài thư đi thư lại mới đây
601. Ngày 12-04-1999. Người viết: VT
602. Ngày 07-04-1999. Người viết: PL
603. Ngày 17-01-1999. Người viết: HT
604. Ngày 22-08-1998. Người viết: T
605. Ngày 02-03-1999. Người viết: L
606. Ngày 30-11-1981. Người viết: NTN
607. Ngày 24-12-1981. Người viết: TH
608. Ngày 06-12-1981. Người viết: T
609. Ngày 16-02-1982. Người viết: LNT
610. Ngày 21-02-1982. Người viết: C
611. Ngày 16-03-1982. Người viết: LCH-Nhân viên CADT
612. Ngày 22-03-1982. Người viết: HA
613. Ngày 17-02-1982. Người viết: TMC
614. Ngày 23-01-1982. Người viết: HVH
615. Ngày 21-03-1982. Người viết: L
616. Ngày 04-07-1981. Người viết: THL
617. Tháng 06-1982. Người viết: Ðạo hữu T
618. Ngày 24-02-1982. Người viết: M/M
619. Ngày 09-01-1982. Người viết: TNT
620. Ngày 04-10-1981. Người viết: M
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 27 28 29 30 [31] 32 33 34 35  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: