Thư đến: '... Thay mặt gia đình chân thành cảm ơn ông Tám và quý đạo hữu đã giúp đỡ gia đình con vượt qua cơn hoạn nạn...'
Việt Nam, TP HCM, ngày 6/10/2000

Kính ông Tám,
Con tên LA, con bà ÐKL, kính lời thăm ông Tám bà Tám và cô Tuyết được nhiều sức khỏe. Kế đó con xin cảm ơn ông Tám đã giúp đỡ mẹ con và gia đình con.
Con không biết địa chỉ của quý đạo hữu đã giúp đỡ gia đình con nên con không thể viết thư cảm ơn từng người được. Kính xin ông Tám cho đăng, giúp con trên tuần báo (PTÐN):
Quý đạo hữu: Cô HG, cô HL, bà L, bà H, bà T, chú T, anh TH, anh VTS, chị A, cô H (TVQT), cô H và các quý đạo hữu bên Úc.
Hiện tại mẹ con đã khá hơn bên phần liệt chân, đã co lên co xuống chậm chậm được, tay hơi nhức nhẹ; Chỉ có trí nhớ là chưa phục hồi nhiều, có lúc nhớ lúc không, lúc biết người quen, lúc thì không biết. Sau khi xuất viện mỗi ngày mẹ con đều phải chạy điện và tập vật lý trị liệu.
Sau cùng con xin thay mặt gia đình chân thành cảm ơn ông Tám và quý đạo hữu đã giúp đỡ gia đình con vượt qua cơn hoạn nạn. Con cũng kính xin ông Tám giúp cho mẹ con và con vài lời khuyên bảo.

Kính thư,
Con,
NTLA
 
Thư đi:
Atlantic City, ngày 13/10/2000

LA,
Ông Tám vui nhận được thư con đề ngày 6/10/2000, được biết mẹ con đã thoát nạn. Mỗi tai nạn xảy ra đều ở trong luật nhân quả.
Ông ngoại của con lúc nào cũng không thích người lợi dụng và cầu xin. Mẹ con có lòng giúp đỡ người khác và cũng lợi dụng tình thế kiếm tiền để sống, cho nên phải bị nạn. Có đụng, có hiểu; Có hiểu thì phải có nạn; Không nên tiếp tục. Cần tự tu tự tiến, không nên nhờ thiêng liêng sẽ có hại về sau.
Còn về phần con thì phải trung hiếu với Cha Mẹ, thì mới tiến được. Ông Tám có bao nhiêu lời chúc con và gia đình vui khỏe.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng - Vĩ Kiên
OngTamVietThu1
 
Vài thư đi thư lại mới đây
361. Ngày 19-02-2000. Người viết: NMT
362. Ngày 14-01-2000. Người viết: L
363. Ngày 20-08-2002. Người viết: N
364. Ngày 16-07-2002. Người viết: DH
365. Người viết: TVD
366. Ngày 19-09-2002. Người viết: HS
367. Ngày 15-09-2001. Người viết: TTĐ
368. Ngày 11-10-2001. Người viết: TQM
369. Ngày 30-06-2001. Người viết: DVH
370. Ngày 02-09-2001. Người viết: TM
371. Ngày 16-12-2001. Người viết: LVT
372. Ngày 11-10-2001. Người viết: ĐMT
373. Ngày 21-05-2002. Người viết: TVH
374. Ngày 26-12-2001. Người viết: TVH
375. Ngày 09-12-2001. Người viết: NKL
376. Ngày 10-03-2003. Người viết: NND
377. Ngày 16-05-2003. Người viết: PTTT
378. Ngày 09-01-2002. Người viết: NTNH
379. Ngày 29-09-2001. Người viết: NM
380. Ngày 13-01-2007. Người viết: LTL
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 15 16 17 18 [19] 20 21 22 23  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: