Thư đến: '... Con đã thấm thía bài học nhẫn nhục, tha thứ và thương yêu'
L A , ngày 10 tháng 7 năm 2000

Kính Thầy,
Thưa Thầy con là MN. Trước con kính lời hỏi thăm sức khỏe Thầy, Bà Tám và cô B. Con không đi đại hội được nên nhờ chị M mang dùm thư này cùng một ít quà đến Thầy. Tuy lòng con luôn ao ước được gần gủi, tâm sự cùng Thầy, ảnh hưởng hạnh đức của Thầy nhưng ngại ngùng vì thấy mình chưa xứng đáng để làm phiền Thầy, trong lúc Thầy quá bận rộn để lo cho cơ Đạo. Con tự nhắc nhở mình gắng lo tu sửa chờ đến một ngày nào sạch bớt nghiệp chướng, thức tâm nhiều hơn để trình diện trước Thầy mà không hổ thẹn. Con cũng ít dịp tiếp xúc với bạn đạo. Trong gia đình chị em mẹ con cùng nhau tu, và cũng chính trong gia đình, con đã thấm thía bài học nhẫn nhục, tha thứ và thương yêu mà Thượng Đế đã ban cho con, và con cũng thức tâm phần nào, xem nhẹ và quên đi mọi chuyện, có cơ hội làm phước thì ráng làm để trả bớt nợ và nuôi dưỡng tâm từ bi như lời Thầy đã dạy. Con cố kèm tâm và tự nhắc nhở mỗi khi tánh tham dấy động; Gắng nhớ niệm Phật thường xuyên để cho ý không phóng đi quá nhiều. Má con rất tin tưởng Trời Phật, người thật thà, chất phát; Tâm thức chưa khai mở, chỉ biết ngồi thiền trước khi ngủ và 12 giờ trưa, xong niệm Phật. Ngoài giờ thì mê phim cải lương.
Con cũng xin chân thành cảm tạ Thầy là con gái của con sanh nở; Mẹ tròn con vuông, cháu là bé gái và rất lanh lợi khỏe mạnh. Con cũng xin lỗi Thầy đã cho cháu tên Phước nhưng vì là con gái nên ba má cháu đặt lại tên Mỹ là Sabrina. Sau khi sanh cháu bé, gia đình cháu xào xáo không ngừng. Thằng rể ra ngoài làm ăn thần kinh bất ổn, nên về nhà thường hay sanh sự chửi mắng, đi đến ấu đả. Nhìn cảnh con cái lòng đau như cắt, đôi khi không dằn được lên tiếng can thiệp lại bị hiểu lầm, tưởng là gia đình phải bị đổ vỡ. Nhớ có lần Thầy dạy con đừng cản bước đường tiến hóa của con cái, con lại khuyên cháu cố gắng chịu đựng, tha thứ nếu nó biết lỗi, mặc dù mọi người xung quanh khuyên cháu ly dị. Bây giờ gia đình cháu đã tạm yên trở lại nhưng không biết sóng gió có còn trở lại hay không. Lúc con qua Mỹ con luôn mong anh em con cái được sống gần gủi nhau như ở Việt Nam để cùng giúp đỡ và ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng qua đến đây lại phân tán nhiều nơi.
Thưa Thầy, lúc đầu con chỉ định viết vài hàng thăm Thầy để khỏi bị mất thời gian Thầy, nhưng viết một hồi con lại kể quá nhiều. Con biết Thầy sẽ hoan hỷ tiếp nhận tất cả tâm sự của chúng con, phải không Thầy.
Con xin kính chúc Thầy dồi dào sức khỏe và sống lâu trăm tuổi.

Kính thư,
N
 
Thư đi:
Montreal, ngày 23 tháng 8 năm 2000

MN,
Thầy vui nhận được thư con đề ngày 10/07/2000 được biết con đang thực hành tu học đời đạo song tu: Đời là phải lo âu và đụng chạm. Nay con đã thấu triệt được sự bận rộn của Thầy vì cơ đạo, cần nhiều thì giờ làm việc để phục vụ cho chung và con tự cố gắng tu là quý, nợ chuyển tiếp mọi người đều phải trả thì mới đạt được sự dứt khoát tu tâm.
Má con thật thà và biết thiền xong niệm Phật là điều quý. Phim cải lương là khơi dậy lòng từ cũng là giềng mối thực hiện tình thương và đạo đức.
Tâm sự của con là đường đi gian khổ của Thầy, lúc nào cũng phải hoan hỷ bước qua. Chúc con vui tiến.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu3
 
Vài thư đi thư lại mới đây
601. Ngày 12-04-1999. Người viết: VT
602. Ngày 07-04-1999. Người viết: PL
603. Ngày 17-01-1999. Người viết: HT
604. Ngày 22-08-1998. Người viết: T
605. Ngày 02-03-1999. Người viết: L
606. Ngày 30-11-1981. Người viết: NTN
607. Ngày 24-12-1981. Người viết: TH
608. Ngày 06-12-1981. Người viết: T
609. Ngày 16-02-1982. Người viết: LNT
610. Ngày 21-02-1982. Người viết: C
611. Ngày 16-03-1982. Người viết: LCH-Nhân viên CADT
612. Ngày 22-03-1982. Người viết: HA
613. Ngày 17-02-1982. Người viết: TMC
614. Ngày 23-01-1982. Người viết: HVH
615. Ngày 21-03-1982. Người viết: L
616. Ngày 04-07-1981. Người viết: THL
617. Tháng 06-1982. Người viết: Ðạo hữu T
618. Ngày 24-02-1982. Người viết: M/M
619. Ngày 09-01-1982. Người viết: TNT
620. Ngày 04-10-1981. Người viết: M
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 27 28 29 30 [31] 32 33 34 35  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: