Thư đến: '... ông Tám cũng đừng quên con và bà ngày đêm vẫn mong đợi, vì ông là niềm hy vọng của con và bà'
Ngày 2/12/1999

Kính gởi ông Tám,
Con vừa nhận được thư của ông gởi về cô Kim Huê, trong đó có một đoạn ông viết cho con và bà, con vô cùng mừng khi biết rằng ông Tám ở xa nhưng rất quan tâm đến con và bà, và vẫn biết đến nỗi khổ tâm con và bà, đang mong đợi ông ban cho chúng con một chút hồng ân của ông Tám. Nhưng số phận của con và bà thật bất hạnh vì nghiệp tâm, nghiệp lực, vẫn hành mà không giải được nên không có duyên được hưởng những gì mà ông Tám ban cho. Con cũng không biết trình bày như thế nào để ông Tám hiểu được hoàn cảnh khó khăn của con và bà khi phải sống nhờ vả, cho nên khi vừa nhận được thư của ông Tám thì con mừng lắm, con và bà có cầm lá thư đến nhà của cô Kim Sơn nhờ sự giúp đỡ của cô theo lời ông Tám nói trong thư thì cô Kim Sơn có nói rằng từ lâu cô không có liên hệ với ông Tám và không nhận được gì. Nếu con và bà có khó khăn thì nhờ cô Kim Huê giúp đỡ; Con nghe xong cùng bà thui thủi ra về, con cũng có nói với ông Tám, số con thật là bất hạnh và vô duyên nếu không có cảnh miền trung bão lụt thì số tiền của ông Tám vừa gởi về cho cô Kim Huê thì con và bà sẽ được một mái ấm để che nắng che mưa như con và bà hằng ao ước trong quãng đời còn lại của bà con, chứ sống tạm ở nhờ là một sự khó khăn nhưng biết làm sao hơn, con và bà phải cam chịu số phận hẩm hiu trong khi con và bà chỉ có hai bàn tay trắng, cho nên có đôi lúc giận mình và giận đời sao nỡ để cho con và bà phải chịu khổ. Kính thưa ông Tám! Cũng vì con chịu ảnh hưởng với đồng bào miền Trung cho nên số tiền ông Tám gởi, cô Kim Huê ủng hộ đồng bào ruột thịt của mình không may gặp phải thiên tai, chỉ trong vòng mấy phút mà sự nghiệp gầy dựng bấy lâu nay đã trôi theo dòng nước. Bây giờ chỉ với hai bàn tay trắng mà phải chờ hàng cứu trợ từng giây từng phút, thật là tội nghiệp. Ông Tám biết không! Đây là lần đầu mà từ nhỏ đến giờ con mới thấy sự thiệt hại nặng nề về bảy tỉnh miền Trung. Ông Tám biết không! Con là một công nhân lương chỉ có sáu trăm nghìn một tháng mà con còn ủng hộ năm ngày công cho đồng bào miền Trung thì thử hỏi cô Kim Huê không làm như vậy sao được; Như sự hiểu biết của con họ rất mong đợi những nhà có tấm lòng từ thiện đến với miền Trung quê hương. Tuy vậy như ông Tám cũng đừng quên con và bà ngày đêm vẫn mong đợi, vì ông là niềm hy vọng của con và bà. Vừa qua trong đài phát thanh, trong danh sách ủng hộ từ thiện có ông Tám ở Canada ủng hộ 1000 USD mà con đã nghe. Chắc ông Tám nghe, ông Tám cũng ngạc nhiên lắm phải không! Vì cô Kim Huê ủng hộ con muốn viết thư cho ông nhiều thật là nhiều để nói cạn lòng con, nhưng vì trang giấy quá ngắn con không thể viết gì thêm nữa cả và con xin ngừng bút, chúc ông được nhiều sức khỏe và vui khi nhận được thư con, cũng như con đã mừng khi nhận được vài dòng chữ của ông. Cuối thư con xin lạy trong tâm.

Con,
NTL
 
Thư đi:
Fountain Valley, ngày 20 tháng 1 năm 2000

T L,
Ông Tám vui nhận được thư con đề ngày 2 tháng 12 năm 1999, được biết con và bà con rất thiếu thốn, nhưng Kim Sơn từ chối giúp đỡ bà cháu của con. Ông Tám vẫn có gởi tiền cho Kim Sơn giúp người nghèo, tại sao Kim Sơn nhận tiền mà không làm từ thiện là tự tạo một đại tội cho chính nó, lường gạt người nghèo là sẽ mắc phải tội tham dâm, gia đình sẽ khổ. Con cần niệm Phật theo băng giảng của ông để dứt khoát với những người tham dâm. Lúc nầy bị nạn lụt miền Trung, ông Tám cũng không đủ tiền cứu trợ, chỉ giúp đỡ một phần nhỏ thôi.
Con nên kiên nhẫn chờ đợi, nếu có dịp ông Tám sẽ gởi tiếp.
Chúc con và bà vui khỏe.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
461. Ngày 07-07-1982. Người viết: NQH
462. Ngày 05-06-1982. Người viết: KH
463. Ngày 03-06-1982. Người viết: CVS
464. Ngày 21-06-1982. Người viết: TNBN
465. Ngày 31-05-1982. Người viết: D
466. Ngày 16-06-1982. Người viết: Bà Mẹ Cô Nhi
467. Ngày 24-08-2000. Người viết: Lương Vĩ Kiên
468. Ngày 30-12-1999. Người viết: PTN
469. Người viết:
470. Ngày 19-01-2000. Người viết: TVL
471. Ngày 05-04-1982. Người viết: NK
472. Ngày 01-03-1982. Người viết: NTH
473. Ngày 05-12-1999. Người viết: ĐTC
474. Ngày 27-03-1982. Người viết: LMH
475. Ngày 30-04-1982. Người viết: NVT
476. Ngày 02-01-2000. Người viết: NĐC
477. Ngày 14-01-1999. Người viết: Lương Sĩ Hằng
478. Ngày 08-11-1997. Người viết: PTN
479. Ngày 07-10-1997. Người viết: NNT
480. Ngày 04-09-1997. Người viết: NVQ
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 20 21 22 23 [24] 25 26 27 28  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: