Thư đến: '... Nhìn Thầy khóc rồi nước mắt con cũng vụt trào ra, vì Thầy ơi! Con là một trong những người lâm vào hoàn cảnh đó...'
Việt Nam, LT, ngày 16 tháng 6 năm 1999

Kính Ðức Thầy,
Ðầu thư con kính chúc Ðức Thầy mãi mãi được mạnh khỏe để chúng con được thấy Thầy và nghe lời Thầy giảng.
Kính Thầy! "Ngày ngày khó qua, rồi ngày ngày cũng qua..., một số người còn ăn cơm chan với nước mắt".
Thầy cảm động rồi nước mắt Thầy chảy dài trên má, nhìn Thầy khóc rồi nước mắt con cũng vụt trào ra, vì Thầy ơi! Con là một trong những người lâm vào hoàn cảnh đó. Con là một giáo viên vì quá đói nghèo nên phải xin nghỉ việc từ năm 1992 (con phục vụ cho nghề 20 năm). Ra đi con bôn ba để kiếm tiền nuôi sống một cháu trai năm nay đã 25 tuổi, bị khùng và ba cháu còn trên đà ăn đi học! Tưởng đâu cuộc sống ổn định không ngờ đến năm 96, nghịch cảnh đến với con. Con lấy gạo bỏ cho một người bán, họ nợ con, không có khả năng chi trả. Con nợ người khác, cũng không trả được. Con cầm cự buôn bán tiếp hai năm để trả nợ, nhưng không được. Họ quấy phá và chửi con, con phải đành lòng mang tiếng lừa đảo (số tiền là 70 triệu VN), bỏ nhà ra đi bỏ lại bốn đứa con còn ăn học cho bà ngoại (trên 70 tuổi) để vào Nam, hầu kiếm sống và kiếm tiền chi trả công nợ. Nhưng rồi nơi đất khách quê người, con không buôn bán gì được, kiếm việc làm thì không có (vì con đã 50 tuổi). Con đành bó tay và niệm Phật cầu nguyện sao cho con có cơ may để được đoàn tụ thấy mặt các con, cha mẹ già và mọi người thân quen.
Thầy ơi! Quả tim con nó có tình, sao đồng tiền vốn nó vô tình. Nó quay mặt ra đi để rồi con mang lấy cái nghiệt ngã của đời. Con ngồi đây, một ước mơ trong tầm tay con "mong ngày đoàn tụ ". Nhưng Thầy ơi! Bên cạnh đó con lại là một trong những người được may mắn gặp được Pháp Thầy trao cho, lòng con lại ấm lại và vui lên, sự tu hành của con lại dạt dào dâng lên tột độ.
Lời Thầy văng vẳng: "Thượng Ðế không bao giờ bỏ các con, các con phải cố gắng tu từng khắc từng giờ ...". Thầy đó, pháp có, bạn đạo chung quanh ta ở VN và ở hải ngoại..., không ai bỏ rơi con. Một niềm tin yêu tràn đầy dâng lên, cái tuyệt vọng nó biến mất. Con cười vui một mình, vào một ngày nào đó không xa "ánh bình minh ló dạng", phải không Ðức Thầy? Con đã làm quen được các bạn đạo ở Thủ Ðức và Long Thành. Một tuần con đến chung thiền hai lần tại nhà anh chị L. Ở đó nó xóa đi cho con được cái mặc cảm "đói nghèo và nợ nần túng quẫn".
Kính Ðức Thầy! Những lời con đã viết đến Ðức Thầy, phải chăng đó là nghiệp quả hay là do con ngu muội gây nên, làm cho cha mẹ con cái và mọi người khổ? Xin Ðức Thầy cho con lời dạy bảo để con tu tiếp đoạn đường còn lại đến mãn kiếp người.

Con,
NTT
 
Thư đi:
Montréal ngày 28 tháng 8 năm 1999

TT,
Thầy vui nhận được thư con đề ngày 16 tháng 6 năm 1999, được biết con đang lâm vào cảnh nhồi quả khổ tâm. Mỗi ngày đều nhìn thấy Trời Ðất mà không biết được giá trị và nguyên khí của Trời Ðất đã nuôi dưỡng con cho đến ngày hôm nay. Buôn bán và bị lường gạt đi đòi thì mới thấy rõ tình đời đen bạc và thất tín tham lam, cuối cùng cũng phải ra đi với hai bàn tay trắng. Của thiên trả địa là vậy, chẳng ai mang được một đồng xu ra đi, chỉ có tâm chịu tu sửa và nhịn nhục còn sống mãi mà thôi.
Sự có có không không giáo dục con người tiến hóa, phần hồn bị vày xéo và đau thương. Nhìn kiếp này sẽ thấy rõ kiếp trước đã làm gì! Sự sống ở kiếp này chứng minh cho kiếp trước đã thiếu tu và tự đọa gọi là luật nhân quả. Tâm làm thân chịu, chỉ có tu nhiên hậu mới tự cứu được. Khổ rồi mới thấy có Trời, có Ðất, có Ðạo là sung sướng nhất trên đời này.
Khổ! Khổ! Khổ! Mới bước vào biên giới của Phật Pháp mà tu; Chỉ có tu mới tự cứu được, hiểu được nguyên lý của cuộc sống là vô sanh bất diệt thì tâm lại càng an và dễ vượt qua sự thiếu thốn về vật chất.
Chúc con an vui trong cảnh nghèo tự thức.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamDocThu
 
Vài thư đi thư lại mới đây
221. Ngày 22-01-1997. Người viết: H
222. Ngày 20-12-1996. Người viết: NHM
223. Ngày 22-01-1997. Người viết: NHC
224. Ngày 01-02-1997. Người viết: PTM
225. Ngày 27-09-1997. Người viết: NT
226. Ngày 20-08-1997. Người viết: NT
227. Ngày 19-08-1997. Người viết: NT
228. Người viết: NT
229. Ngày 14-02-1997. Người viết: ĐTKT
230. Ngày 12-01-1997. Người viết: NDH
231. Ngày 04-08-1997. Người viết: LTB
232. Ngày 07-10-1997. Người viết: TVN
233. Ngày 05-10-1996. Người viết: ĐTNS
234. Ngày 01-07-1997. Người viết: P
235. Ngày 20-05-1997. Người viết: T
236. Ngày 15-07-1997. Người viết: TC
237. Ngày 28-06-1997. Người viết: LSH
238. Ngày 15-04-1997. Người viết: VK
239. Ngày 06-01-1997. Người viết: TVT
240. Ngày 19-06-1996. Người viết: DVH
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 8 9 10 11 [12] 13 14 15 16  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: