Thư đến: '... Con bắt đền ông Tám làm sao để con trở lại Pháp Lý cho tinh tấn thì con mới tin rằng ông Tám không quên con...'
Việt Nam, BH, ngày 7 tháng 2 năm 1998

Kính gởi ông Tám thân thương,
Ðầu năm mới con kính chúc ông Tám nhiều sức khỏe, trường thọ để dìu dắt chúng con tu tiến. Con xin lỗi ông Tám con không gọi bằng Thầy như những người bên đó, để nhớ lại thời ông Tám còn ở Việt Nam. Chúng con rất là vui sướng, mà bây giờ không biết chừng nào mới được gặp ông Tám. Lúc ông Tám đi rồi con không biết gì hết, con tưởng ông Tám còn ở BL nên mua thuốc đi thăm ông Tám thì anh Long nói để ảnh gởi dùm chứ không cho đi gặp ông Tám. Con và chị L đến nhà ông Tám, ở đó nói ông Tám đi rồi, con không tin, mới chạy lại nhà chị N hỏi thăm, chạy tới chạy lui mấy lần cũng không gặp, mà lại nhà chị N thì đâu có được vô nhà, phải ngồi núp ở ngoài trước đợi, vì nếu vô nhà anh của chị N chửi tụi con, nói tụi con rủ chị N đi vượt biên, ổng uống rượu say chửi tụi con quá trời, chờ mãi hết xe đò chúng con phải đi thất thểu như người mất hồn (ông Tám thấy tội nghiệp tụi con ghê chưa?). Sau đó con có viết cho ông Tám hai lá thư đều không được trả lời, lúc đó bà PY trả lời thư từ cho Thầy, cho nên con buồn lắm. Lúc đó anh L lên nhà con giảng đạo, nhưng con bắt được anh L làm chuyện không tốt trên gác nên con nói tránh là công an lúc này khó lắm, thôi anh đừng tới nữa (bắt đầu ảnh nói xấu con là lúc này MS nó bỏ tu rồi cho nên không cần tới nhà nó nữa), nhưng con không dám nói chuyện này với ai hết, vì sợ nói ra những người mới tu sẽ mất niềm tin, vì vậy con cũng bị mất trớn luôn (con nói thiệt ông Tám đừng rầy con nhé). Lúc đang buồn bạn bè rủ con đi theo ông Thầy uống nước lạnh đi thất, rốt cuộc rồi ổng cũng bỏ xác, con nghĩ mà buồn chắc tại con không có duyên với đạo pháp, cho nên Thầy nào cũng bỏ con. Lâu lắm rồi bạn đạo không đến nhà con, tự nhiên ngày 2-9 vừa qua sinh nhật ông xã con (ông xã con đang bị bệnh nước vô phổi và tansion qua tim) ngay ngày hôm đó thì có hơn 20 bạn đạo các nơi ngồi thiền chung nhà anh L, xong rồi nói nhớ MS, tới thăm MS, tới thăm đi, nên con cho đó là cái duyên nhắc nhở chúng con trở lại Pháp Lý.
Từ nãy giờ lo kể lể làm nũng với Ông Tám một chút. Con đã gặp nhiều Thầy nhưng con thương ông Tám nhiều nhất mà cũng giận ông nhiều nhất, vì viết thư mà không được trả lời, mà đi sai đường ông Tám cũng không rầy la. Con giận là vì lúc đó con nghĩ ở nước ngoài mọi người đều đầy đủ vật chất lẫn tinh thần, còn ở đây con bị ngược lại nên lúc đó con buồn lắm, con nghĩ là ông Tám đã quên con rồi, con còn nhớ lúc ở trên lầu M N P, con có hỏi ông Tám khi nào ông Tám ở xa con nhắc ông Tám có biết không? Ông Tám nói: "Có, sao không biết!".
Vậy bây giờ con bắt đền ông Tám làm sao để con trở lại Pháp Lý cho tinh tấn thì con mới tin rằng ông Tám không quên con. Từ nãy giờ con làm nũng với ông Tám đó, chỉ vì nhớ ông Tám quá nên đặt viết xuống là viết lung tung, mong rằng ông Tám hiểu thấu lòng con, giúp con vượt qua lúc khó khăn này, giữ vững niềm tin.
Con mong sao gặp lại ông Tám một ngày gần đây. Con cầu chúc gia đình được an khang, ông Tám sống trên trăm tuổi để dìu dắt chúng con trên mọi lãnh vực. Thương ông Tám nhiều.

Con,
NTS

TB: Rất mong được trả lời!
 
Thư đi:
Ông Tám vui nhận được thư con đề ngày 7/2/98, được biết con nhờ giận buồn mà mới nhớ được ông Tám, hạ bút thỏ thẻ đôi lời thắc mắc của nội tâm, vì sự tự ái chưa dứt bỏ được. Con đã có lòng nhớ thương đến ông Tám, nhưng không biết tội nghiệp ông Tám. Trong lúc đó, ông Tám làm việc ngày đêm, thư từ tràn ngập, bạn đạo tội nghiệp thay ông Tám trả lời cho con, vì ông Tám không rảnh.
Ngược lại con lại trách móc ông Tám và tự chạy theo đường lối khác, thay vì đường lối tự giải nghiệp tâm của ông Tám đã và đang hành. Mãi cho đến nay, ông Tám vẫn bình an và thăng tiến theo con đường tu học sẵn có. Nhìn lại con, thì con đã bỏ bê chính con, chạy theo đường lối khác mà chính con đã tự chọn lúc ban đầu. Con lại càng tạo sự bơ vơ cho tâm thức của chính con. Có pháp không hành, có tâm không phát, tự vày xéo lấy chính mình. Ðã khổ lại càng khổ thêm, bỏ quên nguyên lý tận độ sanh tồn của Trời Ðất. Không hành pháp thì không phát triển huyền bí của nội tâm được. Nghiệp lực của tình đời lôi cuốn làm càng ngày tâm thức lại càng lún sâu. Con đang có một thể xác vi diệu của Trời Ðất đã ân ban hình thành. Con được sự phục vụ đầy đủ, có thanh khí điển của càn khôn vũ trụ, nâng niu và xây dựng cho con hằng ngày. Con có một thể xác tự động, nói năng nhìn thấy, đi đứng toàn là tự động, nhưng chỉ thiếu có thanh tịnh, không chịu thực hành một pháp khứ trược lưu thanh, giải tiến tâm linh trong chiều tiến hóa của Trời Ðất đã sẵn có, là một lầm lỗi nghịch thiên tạo loạn cho chính mình. Từ ngày ông Tám xa Việt Nam cho đến nay, một lòng không thay đổi. Ngày đêm niệm Phật, tự khai mở huyền bí của nội tâm, hướng về thanh tịnh, phục vụ mọi người ở xung quanh. Ðến nay ông Tám vẫn khỏe mạnh.
Nhờ khoa học tân tiến, ông Tám mới có dịp phục vụ con ở giờ phút này, để cho con cảm thấy sự sống còn của tâm thức luôn luôn hằng hữu, ngược lại ô trược vô minh tham dâm tạo khổ, cuối cùng cũng sẽ tan rã như tuyết sương. Vạn sự trên đời là không, chỉ có tâm thức là vô sanh bất diệt mà thôi. Ông tu ông đắc là vậy. Người tu thiếu dứt khoát thì sẽ bị sự lôi cuốn của tình đời đen bạc và trách móc lẫn nhau mà thôi.
Nếu con cảm thức được phần hồn là vô sanh bất diệt thì con tái tục chung hành một đường lối của ông Tám đã và đang hành, thì con sẽ được tự cứu.
Ước mong con hướng về thanh tịnh và tự phát triển tâm từ bi mà tu. Chúc con vui tiến.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
201. Ngày 15-07-1993. Người viết: LVB
202. Ngày 25-05-1993. Người viết: TN
203. Ngày 20-06-1993. Người viết: LĐ
204. Ngày 25-07-1993. Người viết: VVT
205. Ngày 25-08-1993. Người viết: TVT
206. Ngày 25-09-1992. Người viết: VQM
207. Ngày 10-12-1992. Người viết: NĐM
208. Ngày 07-01-1993. Người viết: N
209. Ngày 05-01-1993. Người viết: LMT
210. Ngày 12-03-1999. Người viết: LTL
211. Ngày 05-03-1999. Người viết: ĐP
212. Ngày 17-07-2002. Người viết: PBT
213. Ngày 09-10-2001. Người viết: NTTM
214. Ngày 28-12-1999. Người viết: V
215. Ngày 04-10-1999. Người viết: VQ
216. Ngày 25-03-1999. Người viết: MC
217. Ngày 15-05-1998. Người viết: T
218. Ngày 30-04-1998. Người viết: VN
219. Ngày 27-07-1997. Người viết: NN
220. Ngày 13-11-1996. Người viết: LLN
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 7 8 9 10 [11] 12 13 14 15  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: