Thư đến: '... Mọi người bảo là chị vì công phu nên mới bệnh mất trí; Con không tin nên cố gắng hành thử ..., thấy kết quả vô cùng...'
S, Việt Nam, ngày 12 tháng 12 năm 1997

Bố kính nhớ,
Con tên là TTT, 20 tuổi, có cơ may gặp người Vô Vi vào ngày 4/4/96 âm lịch; Và từ đó đến nay con thực hành, thấy rất có kết quả. Trước đây con bệnh đến mức không thích sống nữa, giờ đây thì rất mạnh khỏe.
Bố ơi! Gia đình con có rất nhiều chuyện không may. Cha con thì rượu chè suốt cả ngày, chị con thì mất trí. Mẹ con và con thì ráng công phu và cầu nguyện cho cả hai. Con xin kể cho Bố nghe nhé:
Cách đây bốn năm, chị con là một người rất giỏi về buôn bán, kể cả công phu. Tánh tình hòa đồng nên mọi người đều yêu mến (lúc đó mẹ và con không thích công phu). Nhà con bán thức ăn chay. Chị con phải vất vả, sáng tinh mơ thì phải vào chợ rồi và đến hai giờ trưa mới về đến nhà. Cha con thì lúc nào cũng có tiệc nhậu trong nhà, (nhà thì trước sau, chỗ ngủ đều là một chỗ, nhà thấp nóc bằng thiết, nóng nực vô cùng), rượu vào thì không thể tả nổi. Mỗi ngày như vậy, chị con buồn lắm vì uất ức, không có ai bày giải, cuối cùng phải lâm vào cảnh mất trí. Hiện giờ vì gia đình không chịu đựng nổi, nên đã gởi đến bệnh viện Biên Hòa. Từ đó con thấy chán đời. Mọi người thì bảo là chị vì công phu nên mới bệnh như thế. Con không tin nên cố gắng hành thử đúng cách và thường xuyên trao đổi với bạn đạo, thấy kết quả vô cùng.
Kể từ ngày đó đến nay không ngày nào thiếu được. Ngày đầu thì chỉ làm chơi thôi, không tin, nghĩ rằng cứ ngồi một cục, nằm thở phì phò, thì làm được gì. Giờ đây thì đã biết KHHBPP là như thế. Cuối cùng Mẹ con cũng hành theo đến nay hơn một năm rồi, tuy nhiên cũng còn trì trệ. Mẹ và con rất mong được gặp Thầy tại VN. Vậy Bố có hứa gì với con không?
Thư cũng đã dài, con xin dừng bút. Cầu chúc Bố phước như đông hải, thọ tỉ nam sơn. Trong khi chờ đợi, gia đình con thành thật cảm ơn Bố đã dành thời giờ quý báu cùng với gia đình, san sẻ mọi thắc mắc âu lo.
Rất mong gặp lại Bố.

Con,
TT
 
Thư đi:
Monaco, ngày 18/1/1998

TT con,
Bố vui nhận được thư con đề ngày 12/12/97, được biết con đang thực hành tu tiến để tự giải nghiệp tâm.
Con ơi! Mang xác làm người thì phải thọ nghiệp duyên bất trắc xảy đến bất cứ lúc nào. Con có duyên lành ngộ được pháp tu tiến trong thực hành, con lại có cơ hội am tường mọi sự kích động và phản động của tình đời đen bạc, đã đem lại sự bất ổn của tâm lẫn thân, mất cả tâm linh trong chu trình tiến hóa, tạo khổ cho chính mình mà không hay. Nghiệp theo dõi từ tiền kiếp, chỉ có tu thì mới tự cứu được. Ngược lại thì chỉ hủy hoại tâm thân, sẽ gặp phải bệnh nan y thì phần hồn mới thức giác. Tâm người đã xác nhận có cảnh Thiên Ðàng và Âm Phủ - hai cõi cũng đều hỗ trợ và giáo dục cho phần hồn tiến hóa, mà cảm thức định luật của Trời Ðất là nhân và quả. Kiếp này có tu thì mới thấu triệt kiếp trước đã làm gì? Kiếp này phải gánh khổ triền miên, hiểu được điều này thì phải lo tu tâm, thì mới giải được nghiệp tâm. Hướng về Trời Phật mà tu thì mới thấy được sự thanh cao và từ bi là gì?
Cần tu sửa tâm thân thì mới có cơ hội tiến tới thanh tịnh và vô cùng thâm sâu của đạo mầu. Nhậu nhẹt là tự sát, dùng rượu cắt đứt sự liên hệ giữa gan và tim. Óc không minh, trí không sáng. Sống trong mờ mờ, ảo ảo, vô minh; Chơn tình vắng mất tâm linh, không sao xây dựng được gia cang tốt đẹp của Trời ban, tự tạo khổ cho gia cang, thì chỉ có đi tới chỗ tự diệt mà thôi. Trời Phật có thấy được cũng phải bó tay mà nhìn đó thôi. Chẳng biết làm gì hơn trong lúc người đời không chấp nhận sự thật để cải sửa tâm thân. Con và Mẹ con tu, cần niệm Nam Mô A Di Ðà Phật theo băng giảng của Bố mà hành thì thanh tịnh sẽ cứu giúp cho gia cang con được yên ổn, hướng về cõi vô sanh bất diệt mà tu.
Chúc con và gia đình vui khỏe.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu1
 
Vài thư đi thư lại mới đây
601. Ngày 12-04-1999. Người viết: VT
602. Ngày 07-04-1999. Người viết: PL
603. Ngày 17-01-1999. Người viết: HT
604. Ngày 22-08-1998. Người viết: T
605. Ngày 02-03-1999. Người viết: L
606. Ngày 30-11-1981. Người viết: NTN
607. Ngày 24-12-1981. Người viết: TH
608. Ngày 06-12-1981. Người viết: T
609. Ngày 16-02-1982. Người viết: LNT
610. Ngày 21-02-1982. Người viết: C
611. Ngày 16-03-1982. Người viết: LCH-Nhân viên CADT
612. Ngày 22-03-1982. Người viết: HA
613. Ngày 17-02-1982. Người viết: TMC
614. Ngày 23-01-1982. Người viết: HVH
615. Ngày 21-03-1982. Người viết: L
616. Ngày 04-07-1981. Người viết: THL
617. Tháng 06-1982. Người viết: Ðạo hữu T
618. Ngày 24-02-1982. Người viết: M/M
619. Ngày 09-01-1982. Người viết: TNT
620. Ngày 04-10-1981. Người viết: M
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 27 28 29 30 [31] 32 33 34 35  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: