Thư đến: '... con ao ước được Thầy dẫn dắt dạo chơi một lần trên cõi Trung Thiên'
S , ngày 19/11/1996

Kính Thầy thương yêu của con,
Con là N S, đứa con chậm bước. Đường đời quả là gian nan, hành trang con lại nặng gánh. Con kịp quay về khi hoàng hôn đã phủ bóng mờ trên thân xác Thầy.
Gần đây, con linh cảm ngày giờ ra đi nhận nhiệm vụ mới của Thầy đã cận kề. Dù biết là Thầy đã đến Úc Châu một ngày không xa, nhưng đời vô thường mọi lẽ, biết đâu con sẽ không còn dịp hội ngộ Thầy cho thỏa dạ nhớ thương, phải đợi đến bao giờ con mới lần mò lên được, đảnh lễ Thầy trước bệ tòa sen.
Con kính xin Thầy ban cho con một hồng ân, được diện kiến Thầy trong những ngày dự Đại Hội Âu Á, Thái Lan.
Nhân vô thập toàn. Bên cạnh những thiếu sót sai lầm mà con đã mang theo nhiều kiếp, con được Thượng Đế ân ban một khả năng chịu đựng, con chịu đựng được mọi người, mọi hoàn cảnh. Điều này đôi khi nhiều người đã nhìn con như một kẻ yếu hèn, nhu nhược; Lắm khi con còn bị kết án là thiếu sót bổn phận...v...v... Con vẫy vùng tuyệt vọng trong nỗi đau khổ của đời mình. Mãi cho đến khi con gặp được Pháp Lý Vô Vi, con tự trả lời được mọi uất ức mà từ lâu con vẫn thở than. Con thôi không còn trách móc Thượng Đế, không còn thù oán những người làm khổ con và nhất là con yên ổn được với những sai lầm của các con của con.
Năm 85, con hành pháp được hơn 1 năm, con bỏ. Cuộc sống quá khó khăn, mình con phải nách 4 đứa con, một mẹ già thêm những đứa em lỡ thầy, lỡ thợ, lỡ cu-li. Lặn lội cho đến năm 90, con vượt biên, ở trại Thái Lan 3 năm, đậu thanh lọc, qua Úc ngày 13/1/1993. Vừa đến Úc con phải chịu một cuộc giải phẩu bệnh ung thư. Nằm cô đơn trong bệnh viện, hồi tưởng quá khứ danh, lợi, tình, con đều không có. Ba năm trôi qua, một lần con được xem cuốn băng phương pháp thực hành của Thầy, nhưng có lẽ duyên chưa đủ hay tại con vẫn còn vô minh. Phải đợi đến lúc con quay về VN năm 1996 (Tết Bính Tý) tìm gặp lại các bạn đạo cũ ở Bình Dương, con quyết định ăn chay, ngồi pháp trở lại, nay đã được 6 tháng. Biết khả năng con còn quá yếu kém (dù chưa một đêm nào con bỏ thực hành) con ao ước được Thầy dẫn dắt dạo chơi một lần trên cõi Trung Thiên.
Đòi hỏi của con thật quá đáng. Thầy thương xin đừng buồn con. Con tu mà còn tham lam, không chịu dày công tu luyện, chỉ muốn ngồi không hưởng phước.
Trước khi dừng bút, con kính chúc Thầy tâm thân thường lạc. Con luôn cầu xin Thượng Đế ban thêm nghị lực cho Thầy chịu đựng lũ con tội lỗi để hoàn thành nhiệm vụ mỹ mãn.

Con,
N S kính thư
 
Thư đi:
Singapore, ngày 16/12/96

N S,
Thầy vui nhận được thư của con đề ngày 19/11/96, được biết con vẫn bình an qua những chuỗi ngày kích động của tình đời đen bạc. Con tu nên tu thật, không nên mong ước bất cứ một điều gì thì mới tránh được sự nắm bắt mà tạo sự trì trệ cho chính mình Con có một xác thân siêu diệu của Trời Đất đã hình thành. Thành tâm tu sửa cho đến khi quân bình thanh tịnh thì mọi sự sẽ đạt thành, khỏi cầu xin và nắm bắt sẽ mất tự nhiên và hồn nhiên. Đạo không thành, tâm lại động vì chưa đạt. Con tu thì con đã ý thức được phần hồn là chủ của thể xác. Cần tu để tự hiểu nguyên lý của Trời Đất mà tiến. Đạt tới quân bình và thanh tịnh thì bất cứ nơi nào con cũng sẽ đến được. Cuộc sống ở thế gian đương nhiên ai ai cũng phải vượt qua cảnh khổ tình tiền duyên nghiệp mà thức tâm, dù cho một vị vua chúa cho đến một người dân bình thường cũng phải dấn thân học hỏi thì mới tiến hóa được. Đối với Tiên Phật cũng phải nhịn nhục nhiên hậu mới thành sự. Nếu con có thành tâm tu sửa thì con sẽ có cơ hội tương ngộ với Thầy, vì cuộc đời của Thầy chỉ có tu mà thôi, dứt khoát thất tình lục dục nhơn duyên, dũng mãnh trong hành trình tự thức, rõ lẽ Như Lai. Chúc con và gia đình vui khỏe.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
601. Ngày 12-04-1999. Người viết: VT
602. Ngày 07-04-1999. Người viết: PL
603. Ngày 17-01-1999. Người viết: HT
604. Ngày 22-08-1998. Người viết: T
605. Ngày 02-03-1999. Người viết: L
606. Ngày 30-11-1981. Người viết: NTN
607. Ngày 24-12-1981. Người viết: TH
608. Ngày 06-12-1981. Người viết: T
609. Ngày 16-02-1982. Người viết: LNT
610. Ngày 21-02-1982. Người viết: C
611. Ngày 16-03-1982. Người viết: LCH-Nhân viên CADT
612. Ngày 22-03-1982. Người viết: HA
613. Ngày 17-02-1982. Người viết: TMC
614. Ngày 23-01-1982. Người viết: HVH
615. Ngày 21-03-1982. Người viết: L
616. Ngày 04-07-1981. Người viết: THL
617. Tháng 06-1982. Người viết: Ðạo hữu T
618. Ngày 24-02-1982. Người viết: M/M
619. Ngày 09-01-1982. Người viết: TNT
620. Ngày 04-10-1981. Người viết: M
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 27 28 29 30 [31] 32 33 34 35  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: