Thư đến: '... Kiếp trước cháu đã làm gì và nghiệp quả của cháu ra sao?'
Ngày 7 tháng 2 năm 1996

Kính thăm Ông Tám,
Cháu đã đọc Tôi Tầm Đạo và cháu tập thiền theo sách chỉ dạy. Cháu xin mạn phép viết thư này cho Ông Tám, xin Ông Tám có thể coi xem kiếp trước cháu đã làm gì và nghiệp quả của cháu ra sao? Cháu không cần Ông Tám coi cháu sao nầy giàu, sao sang ra sao. Hiện giờ cháu rất bằng lòng với vật chất mà cháu đã có, ngày cơm hai bữa, có việc làm hằng ngày, quần áo mặc lành lặn là đủ rồi; Khi cháu chết cháu cũng đâu mang theo với cháu, vậy thì cần gì phải lo lắng bon chen.
Thưa Ông Tám! Cháu sanh ngày 14 tháng 6 năm 1954 tại Hà Nội hồi 2 giờ khuya (ngày tây), cháu tên là VTP, hồi còn nhỏ trong giấy tờ, ở ngoài bạn bè gọi là MP. Sau qua Pháp cháu đổi tên là VME, rồi từ đó cháu đau khổ về tình cảm: Cha mẹ anh em cháu không còn nhìn nữa, mặc dầu cháu đã giúp đỡ 15 năm gởi tiền về VN lo cho cha mẹ anh em. Cháu có hai con gái, lúc mới sanh cháu đặt tên là:
- Đứa gái đầu lòng: TTQP, sau qua Pháp đổi tên là TLT, sanh ngày 25 tháng 2 năm 1976 lúc 23 giờ.
- Đứa gái út: TTQP, sau qua Pháp đổi tên là TI, sanh ngày 14 tháng 9 năm 1979 lúc 23 giờ.
Từ khi tụi nó lớn nó cũng xa lánh cháu và không muốn cháu đến nhà nó. Trong khi đó cháu là một người mẹ lo lắng cho con, cháu không bê tha cờ bạc, hút sách hay rượu chè la lết nhà này nhà khác thì tại sao lại như vậy? Cháu và chồng cháu lại ly dị, vậy Ông Tám có thể coi cho biết kiếp trước cháu đã làm gì, cháu là ai? Các con cháu sau nầy có thể trở về đường chân chính không?
Cháu xin ngừng bút. Cháu rất muốn gặp Ông Tám và xin Ông Tám trả lời cho cháu về cuộc đời của cháu.

Cháu,
MP

TB: Mỗi tối cháu tùy theo thời giờ, cháu thiền từ 10 đến 15 phút, cháu thấy tâm hồn khỏe hẳn ra, ít khóc lại ít buồn và cầu nguyện rất nhiều.
 
Thư đi:
Ông Tám không phải là thầy bói vô trách nhiệm, kiếm được tiền mà phần hồn không thoát, vì vậy Ông Tám mới tìm con đường tu học, khứ trược lưu thanh, tự giải nghiệp tâm cho chính mình. Vì đời càng ngày càng động loạn hướng ngoại bỏ mình, cho nên Ông Tám phát tâm đóng góp những gì chính Ông Tám đã hành được. Không muốn loài người quên họ, cho nên Ông Tám đề nghị phương pháp hành hiện tại để cho con người tự khứ trược lưu thanh, ổn định thần kinh, khai thác cơ tạng, hiểu nguyên lý cấu trúc của Trời Đất mới hành sự, chỉ lo tu sửa, chứ không có được quyền phê phán bất cứ một ai, càng hành pháp thì sẽ càng thấy rõ sự sai lầm của chính mình và cảm ơn những sự phụ bạc của tình đời, dốc lòng tu tiến thì mới có cơ hội trở về lãnh vực thanh tịnh của chính mình. Con có duyên lành đọc Mục Bé Tám và hành pháp lần lần con sẽ hiểu nhiều hơn trong thực hành chứ không cần nhờ đỡ Ông Tám nói chuyện tiền kiếp của con.
Khi con đạt tới thanh tịnh, con sẽ rõ tiền kiếp con là ai, đã làm gì mà kiếp này tạo nghiệp khổ tâm, từ đó ăn năn tự tu tự tiến, không ỷ lại nơi Thần Thánh Tiên Phật thì trí óc của con sẽ thông minh sáng suốt lên. Nhơn loại mê tín dị đoan tạo ra dẫy đầy đau khổ, sống trong yêu thương tạm bợ mà không có lối thoát. Phần hồn của con là chủ bản thể hiện tại chứ không phải bản thể làm chủ phần hồn. Vậy con nên hướng về thanh tịnh tu tiến thì phần hồn của con sẽ được sáng suốt và thanh nhẹ, đánh tan mọi sự mê tín dị đoan, thực hành là tự khai thác chính mình. Thiên Địa Nhân - con người là cấu trúc bằng sự siêu nhiên của Trời Đất hình thành tại mặt đất. Con có một khối óc sáng suốt có khả năng khai thác chính mình tức là đại diện Trời Đất thế thiên hành thiện cứu đời. Con biết được con thức là con có thể biết được cha mẹ
Trời Đất và nhân loại. Lúc ấy con sẽ sống trong tình tha thứ và thương yêu của Trời Đất. Cuộc sống trong kích động và phản động sẽ dìu tiến tâm linh chúng ta tiến hóa, nên hành sẽ hiểu mình hơn thay vì mê tín ỷ lại mà không tiến - đó là một đại tội với Thượng Đế. Chúc con vui hành trong thanh tịnh.
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
61. Ngày 01-08-1994. Người viết: PTT
62. Ngày 15-12-1994. Người viết: NN
63. Ngày 12-01-1995. Người viết: PTM
64. Ngày 12-12-1994. Người viết: C M
65. Ngày 04-01-1995. Người viết: TM
66. Ngày 14-09-1994. Người viết: TA
67. Ngày 28-07-1994. Người viết: LNM và LNB
68. Ngày 28-02-1994. Người viết: TVMC
69. Ngày 19-04-1994. Người viết: T
70. Ngày 02-08-1994. Người viết: T A
71. Ngày 27-04-1994. Người viết: TVP
72. Ngày 22-06-1994. Người viết: TĐM
73. Ngày 20-06-1994. Người viết: NTQ
74. Ngày 25-02-1994. Người viết: TTL
75. Ngày 04-07-1994. Người viết: NTN
76. Ngày 27-07-1993. Người viết: LTT
77. Ngày 08-09-1994. Người viết: TTQ
78. Ngày 01-09-1994. Người viết: HTH
79. Ngày 01-09-1994. Người viết: NTN
80. Ngày 02-09-1994. Người viết: CTB
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 1 2 3 [4] 5 6 7 8  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: