Thư đến: '... con cúi lạy Thầy thương xót giúp cho Ba của con được chóng lành bịnh để còn tiếp tục tu hành'
B , ngày 5/12/1995

Kính thưa Thầy,
Từ ngày Má con mất (10/7 A.L.) vừa qua, Ba của con L Q H, bị bịnh liên miên, chân tay đau nhức, tinh thần và thể xác đều kiệt quệ.
Con lo lắng, nếu cứ tiếp tục như vậy thì Ba của con sẽ chết mất. Vì vậy, con cúi lạy Thầy thương xót giúp cho Ba của con được chóng lành bịnh để còn tiếp tục tu hành.
Con lạy Thầy ba lạy và chúc Thầy luôn luôn sức khỏe dồi dào.

Con,
L Q T
 
Thư đi:
Adelaide, ngày 2 tháng 1 năm 1996

L Q T,
Thầy nhận được thư của con đề ngày 5/12/95, được biết con đang lo âu một việc mà chính con không lo được. Bà đi trước ông đi sau, tức là định luật của Trời Đất, còn sự phán xét của phần hồn thì tùy theo định luật nhân quả của mọi cá nhân. Con nhìn ba con, con sẽ Thấy người kế tiếp chính là con, phải làm gì trong giai đoạn này để báo hiếu cho phụ mẫu. Thầy đề nghị con nên thực hành PLVVKHHBPP để tự cứu và giúp đỡ cho cửu huyền thất tổ được thăng hoa ở tương lai, đó là điều cần thiết. Con nên thường niệm Phật hướng tâm về phụ mẫu, một thời gian lâu dày công tự niệm, con sẽ thấy hiếu nghĩa và từ đó con sẽ được tiến lên tốt đẹp hơn. Càng nhìn rõ xác của ba con thì con sẽ được có cơ hội hiểu được luật nhân quả là gì? Làm người trước khi chết thì phải thọ nghiệp thân nhiên hậu mới ra đi. Đó cũng là một tờ báo cáo suốt kiếp làm người, thiện ác ra sao đều hiện ra hết.
Tận nhân lực tri thiên mạng; Con có thể làm những gì con có thể làm trong khả năng của chính con để đền đáp ân sâu của từ phụ trước giờ ra đi là đủ rồi. Còn về phần thiêng liêng thì con nên trì tâm niệm Phật và cầu xin cho ba sớm được tai qua nạn khỏi. Tại sao phải niệm Phật? Niệm Phật là từ trường của chính con sẽ quân bình và tốt hơn, hướng tâm về ba thì ba sẽ nhận được sự ấm áp của con.
Thầy có bao nhiêu lời nhắn con tự thức và tự hành. Con nên vui lên, được phục vụ cha già trong sự thành tâm báo hiếu. Chúc con vui tiến.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu1
 
Vài thư đi thư lại mới đây
401. Ngày 07-10-2001. Người viết: MTMU
402. Ngày 23-12-2002. Người viết: TL
403. Ngày 10-01-2002. Người viết: NTKC
404. Người viết: MK
405. Ngày 17-02-2003. Người viết: NP
406. Người viết: NP
407. Ngày 13-07-2002. Người viết: NTT
408. Ngày 16-08-2002. Người viết: N
409. Ngày 08-08-2002. Người viết: TTN
410. Ngày 28-08-2002. Người viết: PTPM
411. Ngày 03-09-2002. Người viết: TTAH
412. Ngày 10-09-2002. Người viết: BC
413. Ngày 06-05-2002. Người viết: LKP
414. Ngày 27-03-2002. Người viết: TVK
415. Người viết: VHH
416. Ngày 17-09-2001. Người viết: NVC
417. Ngày 10-06-2002. Người viết: MB
418. Ngày 14-06-2002. Người viết: ĐNTT
419. Ngày 28-10-2000. Người viết: PLH
420. Ngày 20-07-2000. Người viết: NVT
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 17 18 19 20 [21] 22 23 24 25  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: