Thư đến: '... Kính xin ông Tám giải giùm kinh tế cho con và nghiệp con'
Ngày 2/9/1994

Kính gởi ông Tám,
Tôi tên là C T B sanh năm 1935. Con nhớ ngày ông Tám còn ở VN, ông Tám giảng dạy những lời châu tiếng ngọc. Từ ngày ông Tám rời khỏi Việt Nam, con mất mát một cái gì quý báu.
Kính thưa ông Tám! Con tu từ trước đến nay cũng có kết quả nhiều nhưng hiện giờ con bị nghiệp con quá nặng lại thêm bị nền kinh tế khó khăn mà gặp phải não nề nên đường tu học chậm trễ.
Kính xin ông Tám giải giùm kinh tế cho con và nghiệp con để cho nhẹ phần xác được nhẹ đặng con dễ bề tu học. Nhưng hiện giờ con tu được không? Ông Tám cho con ít chữ gởi về cho con biết đặng con vững lòng. Con mong ngày ông Tám trở về, con có được gặp không?

Cảm ơn ông Tám,
TB
 
Thư đi:
Ngày 14/9/94

Chị T B,
Ông Tám đã nhận được thư con, được biết sự xa cách giữa con và ông Tám lâu năm nhưng con vẫn nhớ thương ông Tám. Thành thật cảm ơn con.
Còn về đường tu học thì phải ngộ khổ. Trong khổ thì mới thấy rõ chơn lý hơn.
"Khổ hành tâm thức mới nên thân
Thức giác tự tu chuyện tối cần"
Nói về kinh tế thì Trời đã ban cho con có một cơ hình thể xác có thể đứng và đi trên mặt đất, cộng với khối óc tinh vi ở thế gian không ai có thể chế được, chỉ nhờ sự nhịn nhục tối đa của chính con nhiên hậu mới tự hiểu được là chính mình tham và tự hại đó thôi. Nhịn nhục và tự đạt đến sự thanh tịnh thì mọi phước đức sẽ hội tụ căn cơ tiến hóa của tâm linh. Lúc đó con sẽ cảm thấy vui mà thực hành trong nguyên lý đời đạo song tu. Tất cả đều do con mà ra, con thanh tịnh thì mọi việc sẽ được an vui. Con còn khôn hơn con trâu; Con trâu không đòi hỏi kinh tế nhưng nó vẫn có kinh tế dồi dào cho cuộc sống của chính nó. Có phải Trời ban hay là không?
Ở đời này có câu: " Trời sanh voi sanh cỏ". Người chịu tu và cương quyết giải nghiệp tâm thì cũng sẽ thành Phật. Chúc con vui tiến.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamwriting
 
Vài thư đi thư lại mới đây
421. Ngày 19-06-2002. Người viết: NKK
422. Ngày 20-06-2002. Người viết: NHĐ
423. Ngày 17-10-2000. Người viết: TH
424. Ngày 27-10-2000. Người viết: HTC
425. Ngày 26-01-2002. Người viết: TVH
426. Ngày 11-02-2002. Người viết: TB
427. Ngày 15-03-2002. Người viết: NTT
428. Ngày 12-04-2002. Người viết: Thiền Đường Dũng Chí
429. Người viết: HT
430. Người viết: NTL
431. Ngày 26-03-0000. Người viết: N
432. Người viết: L
433. Ngày 14-02-0000. Người viết: ĐTTL
434. Ngày 10-01-0000. Người viết: LPL
435. Ngày 12-01-2001. Người viết: MH
436. Người viết: TL
437. Ngày 22-09-2001. Người viết: NVS
438. Ngày 23-03-2002. Người viết: NKH
439. Ngày 12-12-1994. Người viết: NNV
440. Người viết: MH
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 18 19 20 21 [22] 23 24 25 26  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: