Thư đến: '... thức nửa đêm buồn ngủ quá, rửa mặt tỉnh táo và còn cay mắt, không cách nào tập được.'
18/8/1994

Kính gởi: Ông Tám, Lương Sĩ Hằng.
Tôi tên là N N V, tôi cũng lớn tuổi rồi. Tình cờ tôi mua một cuốn sách (Pháp Lý VVKHHBPP) nhưng tôi tập luyện không thành công, mà tôi không biết hỏi ai và tôi cũng không quen bạn đạo nào.
Tôi viết lá thư này để hỏi ông Tám, tôi ở nhà tập thiền ban ngày không buồn ngủ, có tiếng ồn và ngoại cảnh chi phối không tập được và còn phải đi làm sinh sống qua ngày; Còn ban đêm thường lệ thức 2 giờ sáng, nửa đêm buồn ngủ quá và tôi rửa mặt cho tỉnh táo cũng còn bị cay mắt và cơn buồn ngủ vẫn còn, tôi ngồi thiền không được lâu và bị hôn trầm. Có cách nào trị được không buồn ngủ, xin ông Tám chỉ dẫn cho tôi không còn cơn buồn ngủ và rửa mặt không cay mắt.
Tại sao bạn đạo của ông tập được mà tôi tập không được, thức nửa đêm buồn ngủ quá, rửa mặt tỉnh táo và còn cay mắt, không cách nào tập được.
Xin ông chỉ dẫn, tôi cảm ơn.
Chúc ông đường đời may mắn và giải thoát.

Xin tạm dừng bút,
N N V
 
Thư đi:
Ngày 28/11/94

Kính gởi ông V,
Tôi nhận được thư của ông đề ngày 18/8/94, được biết ông muốn tu tập PLVVKHHBPP nhưng vì tập quán của cơ tạng mà không tập được.
Muốn tu PLVVKHHBPP thì phải hiểu rõ xác phàm chính ta đang mang và đang điều khiển thì phải có trách nhiệm sáng suốt để hỗ trợ cho thân xác ổn định và tu học. Võn vẹn chỉ có khối thần kinh từ đầu lẫn chân hoạt động được, cũng do điện năng của vũ trụ quang hỗ trợ qua thực phẩm hằng ngày. Toàn thân của chúng ta đều là hội tụ ở vũ trụ quang, cho nên chúng ta có một cơ tạng linh hoạt vô cùng, đi đứng ngồi nằm tự động. Nếu hướng tâm về thanh tịnh của Trời Phật thì chúng ta tự cảm thấy phần hồn là chủ của thể xác chứ không phải thể xác là chủ của phần hồn. Ý thức rõ ràng như vậy nhiên hậu mới tu hành đúng giờ đúng giấc được. Chính phần hồn là chủ của thể xác. Hướng về thanh tịnh mà hành, nó sẽ là một vị Phật của bản thân tiểu thiên địa, cai quản vạn linh trong cơ tạng. Hiểu được vị trí rõ rệt này thì chúng ta mới thấy rõ sự hiện diện của chính chúng ta ở mặt đất này là một ánh sáng của quần sanh, biết ăn biết nói biết làm và biết xây dựng. Mượn pháp hành triển thì trí tuệ sẽ phân minh. Hồn thức tức là không còn mê ngủ nữa. Phật tỉnh Phật mới làm việc công minh được. Còn Phật mê ngủ thì sẽ bị ma quỷ điều khiển và ngoại cảnh chi phối. Ý thức rõ rệt mọi việc đã được an bài bởi Trời Đất. Ở thế gian mở mắt nhìn Trời Đất vĩ đại thâu gọn lại là con người đại diện mọi khả năng của Trời Đất mà phát triển cho quần sanh thì mọi người đều có nhiệm vụ tại mặt đất cả. Người chịu tu tức là người chịu khai thông trí tuệ của chính mình để bảo vệ thân xác và đem lại mọi sự sáng suốt phục vụ cho vạn linh trên mặt đất này. Càng tu càng thấy thích thú và thấy ta là một khả năng trong vũ trụ. Thức hòa đồng và bình đẳng sẽ tràn lan khắp nơi và giúp đỡ cho những người kế tiếp. Sự quan trọng là chính ông phải thấy ông và vị trí của chính ông thì ông mới hành PLVVKHHBPP được. Khi hành được thì trí tuệ phân minh, ông sẽ tự khai thác tâm thân của chính ông mà cộng hưởng cùng Trời Đất. Đó là hạnh phúc của tâm linh. Chính ông đã lớn tuổi rồi, ông nên tự hỏi hạnh phúc trong đời ông nằm ở đâu. Sự cảm thức vô cùng của chính ông chưa phát triển được thì làm sao hiểu được chiều sâu của hạnh phúc tâm linh.
Tôi năm nay cũng 72 tuổi tròn, tự cảm thức được sự liên hệ điển quang giữa chính tôi và Trời Đất thì tôi mới thấy rõ an ninh và hạnh phúc của cuộc sống hiện tại của chính tôi. Đó cũng do sự tu học đạt thành. Vậy tôi xin ông nghiên cứu cho kỹ càng trước khi hành pháp. Bước vào tâm đạo thì sẽ từ từ dứt khoát trần tâm ô trược thì sẽ đạt tới không không gian và không thời gian. Kính chúc ông vui khỏe.

Kính thư,
Lương Sĩ Hằng
OngTamwriting
 
Vài thư đi thư lại mới đây
561. Ngày 24-09-1999. Người viết: LTTL
562. Ngày 19-10-1999. Người viết: LTB
563. Ngày 04-10-1999. Người viết: HS
564. Ngày 26-07-1998. Người viết: N C
565. Ngày 30-12-1999. Người viết: (một bạn đạo)
566. Ngày 25-12-1999. Người viết: Ðể TMD
567. Ngày 16-10-1999. Người viết: H
568. Ngày 02-04-1999. Người viết: TVS
569. Ngày 19-11-1999. Người viết: TTH
570. Ngày 14-11-1999. Người viết: TVTh
571. Ngày 16-01-2000. Người viết: M2K
572. Ngày 16-01-2000. Người viết: MVC
573. Người viết: (một bạn đạo)
574. Ngày 07-09-1997. Người viết: TTNT
575. Ngày 17-12-1998. Người viết: CVH
576. Ngày 23-08-1999. Người viết: LQL
577. Ngày 18-11-1999. Người viết: Soeur N
578. Tháng 08-1999. Người viết: ÐQT
579. Ngày 17-03-1999. Người viết: T
580. Ngày 19-07-1999. Người viết: KS
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 25 26 27 28 [29] 30 31 32 33  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: