Thư đến: '... Nhờ cùi tu Vô Vi nó lành lặn thơm tho, đẹp người đẹp nết'
Nhắc Lại:
Kính thưa Thầy.
Tiếp được cuốn Tôi Tầm Đạo 1-2-3 do chi bưu điện Dĩ An trao ngày 28-5-1973.
Tôi đọc đi đọc lại, nghiền ngẩm. Bắt đầu tập công phu theo lời chỉ trong sách, kể từ ngày 1/6/1973. Tôi là người bịnh, sự lười biếng, ngày giờ dạy học đóng khuôn tôi 20 năm rồi, còn thời gian nào trống công phu học đạo? Thế! Khi đã muốn, đã thích, sự sắp xếp do nội tâm phát khởi. Không có gì cản trở, làm trở ngại.
THỜI KHÓA BIỂU.
Khuôn khổ noi theo đúng.
Buổi sáng dậy sớm vừa điểm tâm vừa niệm Phật- trong khi đã xong mọi thủ tục, dọn dẹp, quét tước, đại tiểu, tưới bông hoa, nấu nướng. Trên đường đến trường -(mật niệm nghiêm chỉnh) đến lớp học mọi việc dạy dỗ, tiếp xúc, cũng trong nghiêm chỉnh; Vui vẻ đặt nội tâm vào chủ yếu niệm Phật, mặc dù có nhiều động loạn biến chuyển. Sự cương quyết ấy quen dần!
Buổi trưa dạy về: Nghỉ khỏe, nằm dưỡng linh soi hồn công phu giờ ngọ (ngọ 12g trưa -1g30 xả). Độ ngọ. Chiều tự động không ăn. 5g, 6g chiều nằm thở êm tịnh xong rồi sinh hoạt nhỏ, nghe đài xem tivi...8g đi ngủ, 12g tý công phu.
Nhưng 15 phút trước đó tập thể dục thông thường cho tươi lại. Có đêm ham thở đến 12g hoặc ngủ dậy trễ 15 phút, đặc biệt nhất nằm gọn giờ tý, đều đều từ tháng này qua tháng nọ.
Có thói quen tốt.
THIỀN.
Lúc chưa biết thiền thì lạy 4 phương trời. Tụng kinh ăn chay kỳ tháng, ăn tháng và ăn trường chay. Có nếp sống theo giờ giấc kỷ cương, bất kỳ đi đâu xa, đến giờ tìm cách xa lánh, trốn, công phu. Ít tiếp xúc bạn bè, lẫn tránh nhiều hơn hò hẹn. Sự gặp mặt bất đắc dĩ là sự vui vẻ chưa từng có mà Thượng Đế thường ban.
ĐỜI ĐẠO.
Song tu không có nghĩa bỏ hẵn đời vào đạo hoặc bỏ đạo ra ...
TÂM ĐỘNG.
Tâm con người động nên tạo ra mọi vật chung quang động. Muốn tìm cách tịnh lại mượn đủ đạo noi theo để trở về. Thí dụ: Vật chất vốn dĩ nó là tạng tịnh, đem chưng bày đầy đủ màu sắc, mùi vị, hương thơm ngào ngạt, tương ứng với lục căn lục trần, nhìn xem vẻ đẹp đa dạng của nó tâm chớ động, tâm thèm muốn suy biết được? Sự tiến hóa nhân loại đến chỗ cao tột, đem những vật vô tri vô giác hợp thành món tinh xảo hữu dụng (vốn của nó có căn bản là tịnh) mà khoe sắc, hấp dẫn, thu hút, ưa nhìn. Ta mê chạy theo vật chất! Phải sửa song song. Cư trần không nhiễm trần.
TẬP CÔNG PHU TÌM THẦY.
Tròn một tháng tìm thiền đường có gì lạ không? Thật ra ở đó có nhiều hạng huynh trưởng trí thức, sang trọng, giàu xe cộ, chững chạc lẫn với quý vị cao niên già trẻ, không phân biệt tôn giáo, giai cấp. Tôi đứng ngoài vòng rào không dám bước vô mặc dù trong ấy có nhiều bạn đang ngồi chờ yên tịnh. Ngỡ ngàng nhìn lại hình dáng mình (cùi hủi xấu xí) quê mùa. Đồng loại với nhau mình vô phước hơn bạn - ngậm ngùi, tủi hổ cho số kiếp, tự an ủi, mình nên đứng! Ngồi! Xa bạn- ngó xuống niệm Phật, đừng ngó lên.
SỨC TRUYỀN CẢM.
Hai tiếng đồng hồ trôi qua, xe ông Tám đến đậu ngay bên. Bước xuống, một số thân hữu đồng đạo người thân gia đình đi trước. Linh tánh biết người mập trắng là ông Tám vì vẻ dáng khác thường - Đón - ông đứng lại - Tôi hỏi:" Ông có phải là ông Tám không?" Gật đầu - "Thưa ông! Tôi đã xem cuốn Tôi Tầm Đạo 1,2,3 và tập công phu nay đúng 1 tháng. Xin ông vui vẻ xem tôi tu được không?". Ông ngó lên bộ đầu với đôi mắt sáng trưng như ngọc, có sức truyền cảm lạ lùng- "Được! Ráng tu...". Ông từ từ bước vô sân, bạn đạo ra tiếp, đi cách 5m, 6m, tôi lầm lủi theo. Khi tìm được góc nhà ngồi xuống nghe giảng kinh. Công phu với Thầy với bạn đạo lần đầu tiên tôi có cảm giác thoát tục, như có gì thu hút mãnh liệt làm say mê quên tất cả - trụ vào nội tâm một chữ công phu.
Ra về lòng mình sáng lên, phấn khởi, tin tưởng. Từ đó mỗi tuần đều có mặt ở thiền đường, chiều thứ bảy.
...đồng một điển giới, song công phu nhiều hay ít, sự sinh hoạt xã hội gia đình cũng hạn chế cho hành giả một phần linh động qua trụ điển. Tôi sai lầm lúc ban-bầu-đầu về giai cấp.
TRIỆU CHỨNG.
Với thân thể mỗi khi công phu, ngứa nhột ngã té, lắc qua lắc lại rất ngon lành-ồ-ồ- một tiếng nổ-tiếng nghe xa, nghe gần, thân hình to lớn, nhỏ bé, đen trắng, nặng nhẹ đều là xuất trược. Sự ồn ào linh động lối xóm, tiếng gầm thét lúc đêm thanh vắng, mưa gió bất thường. Khuya ngồi công phu tôi rất sợ (ý tánh căn bản của tôi nhát lắm! Sợ ma, tự nhủ ma là gì? Đừng sợ!!)
Trời gầm, sấm chớp, cái nhoảng xẹt, chớp nhoáng mạnh, trong đó có ba vệt sáng lẫn dài theo tiếng gầm nổ đùng đùng lóe lửa. Trụ vào mô ni châu hành giả sẽ thấy nằm trọn trong đó không sai tí nào. Được thu vào nằm gọn rất lạ, từ đó mỗi khi mưa gió, bài học được cái gì của bản thể làm mình dạn dĩ thêm lên. Tà ma ngoại đạo mình không sợ sệt, mình đâu có chơi với họ, họ đâu phá mình làm gì. Công phu không gặp ma!! Kể như còn yếu.
THỜI GIAN.
Ba tháng đều đều . Bỗng một đêm công phu thấy bay ra khỏi bản thể. Hai tay chắp lại, miệng niệm Phật, hai chân thẳng cách mặt đất độ 6 tấc bay trên đoạn đường dài độ 200m, vệ đường cây lúp xúp gió nhẹ thổi lá cây đồng đưa như vui vẻ đùa cợt hòa đồng với nhau (vì vía là thể hơi có tri có giác, họp với thể hơi của vạn vật đồng chất với nhau phát ra hiện tượng vô cùng lạ, khó tả theo tính tự nhiên đặc biệt). Đang bay suôn sẻ ngon lành thấy đằng xa có ba cây cổ thụ cao chắn ngang đường cản trở...Mật niệm Phật người tôi bay lên giữa cây...Niệm thêm, định lướt trên ngọn, trở xuống tiếp tục bay nữa, nào ngờ trở về bản thể nhẹ nhàng mở mắt ra. Người mình ôn lại lúc đi ra - thấy gì? Ở đâu? Những cái mắt thấy tai nghe- nhất là cái Tâm ra sao. Nó vui vẻ sáng suốt hơn lên bằng uống 10 thang thuốc bổ (Đêm ấy là đêm mồng 10 rạng 11 tháng 9).
NĂM 1973-1974.
Lúc ấy ông Tám đi Pháp 2 tháng. Khi về tôi hỏi - ông cho biết xuất vía ở Mô Ni Châu...Ánh sáng hà sa, vách đá, bãi sa mạc, tường gạch, lên cao, xuống thấp, núi non biển rộng đều vượt qua khỏi nhờ "mật niệm". Lúc ra khỏi bản thể bất cứ gặp hoàn cảnh nào cũng ứng đối khôn ngoan. Đời như đạo rất nhẹ nhàng tương ứng.
XUẤT VÍA.
Nó là gì? Là thể hơi có tri, có giác, là một trí thức, một thức trí gom lại sáng suốt trong mê mà tỉnh. Công phu xong nằm xuống, 2 tay chân xuôi theo chiều thân nằm thẳng, pháp luân nhẹ, từ từ khí lạnh 2 bàn chân đi lên đến rún ngừng lại. Khí ấm trên bộ đầu đi xuống đến rún, nghe rần rần kéo lên đỉnh đầu bay ra rõ ràng. Trên 2,3 chục lần như vậy. Hành giả tự sửa cái lố bịch của mình, giữ giới tốt khi có điển giới, ăn, uống giờ giấc đều thanh, nhẹ, rả, dễ. Thân thanh, tâm thanh, hoàn cảnh thanh. Tứ cấm mình có dính líu với phàm ngả. Tự phê, tự kiểm, tự nhận mình nhẹ, cao hơn một tí, biết sống vui, nhàn. Ham sống, không sợ chết vì đã hiểu hồn vía, điều khiển được nó. Nó cho mình cái hay, lạ, chưa bao giờ thấy. Sống tự chủ, chết giải thoát.
LỘI TRONG NỘI TẠNG.
Xuất vía nhiều lần rút được hai ý sau: Công phu xuất được vía mừng lắm! Đi đâu cũng vui cũng tốt. Tu học không đạt sinh ra chai cứng. Sửa mình mình hiểu! Người ngoài nhìn vào làm sao thấu đáo tường tận con ngựa ý mã tâm viên.
Song hấp dẫn lắm! Khi bạn đạo gặp mình họ vui vẻ chào nói. Lời nói của mình có mãnh lực thu hút , có cảm tình thân thiện như như ruột thịt quen thân lâu đời, mặc dù họ khó tính. Ra ngoài bản thể phải có triệu chứng âm dương hợp thành! Trong nội tạng tôi thấy rừng cây bị gió bão làm xiêu vẹo, lá lá mục nát, nước dơ cuồn cuộn chảy, cuốn theo cây tre nổi lềnh bềnh. Cây xanh lá còi mượt non lún phún, tôi mệt nhọc đứng nhìn. Nhà cửa tre lá sơ rơ, buồn tẻ quan sát trở về. Mở mắt ra lòng buồn vô hạn cho cơ thể bịnh hoạn, đổ nát, ghê...
...cười ra tiếng, gọi ba, gọi má nghe đúng lời. Khóc chảy nước mắt đầm đìa. Khi mở mắt mà còn. Âm vọng lại trong trí tưởng cái gì còn, cái gì mất? Cái thiếu? Cái đủ, mình đã tạo nơi đó. Nhờ xuất vía tôi hiểu được tiền kiếp và hiện nay, đời sống đọa đày của tôi rất đúng! Tôi đang sống vui trả kiếp vay của "ngu hồn".
BỒNG LAI.
Tiên cảnh là nơi người công phu nhẹ nhàng và đi trước tiên, hành giả đừng ngộ nhận. Không gì đặc biệt (nhưng hay) là bước vào vô vi (không kể ra hết nơi đây), lội vô tề gia hư cảnh cũng thế! Rất dễ phân biệt trong đức tin an nhiên tự tại lo, công phu tốt. Tôi chưa bao giờ gặp Tiên Phật, những cái cùng tột Tổ, Thầy chứng đắc. Tôi biết sức điển quang còn yếu, mỗi khi bay cao tuột xuống, không thể vững đi đứng như "xuất hồn Tổ Thầy đồng kể". Nhưng có một lần vơi bộ quần áo đầy kim tuyến, sáng ngời, tôi bước được, trước hằng mấy chục nấc thềm để đứng trước một hàng ba ngôi đền đẹp to lớn không có người. Con mừng lắm Thầy ơi!!
TÂM PHÁP.
Kính thưa Thầy! Khoảng thời gian, thiền đường chiều thứ bảy, gặp Thầy được hai lần! Vì không dám làm bận rộn Thầy với câu hỏi sơ thiền, sẽ được trả lời qua công phu: 1) Lúc sơ giao ngoài cổng. 2) Lúc xuất vía. Thắc mắc chỉ ngó Thầy mà ngầm hiểu. Hồi ấy kinh sách, băng cassettes ê hề, rẻ tiền, dễ mua, song con lấy tâm pháp hay hơn. Nhờ thế thân thể tư tưởng hòa đồng với khí bốn mùa ấm lạnh nóng mát chuyển theo thời gian do vũ trụ vận hành. Con không đọc sách nghe băng, chỉ nắm trọn Soi Hồn, Pháp Luân, Thiền Định đủ rồi. Tôi Tầm Đạo số 4 là chót, bao bí quyết gọn gàng tu muốn hụt hơi.. Lý luận nhiều làm sao tu cho xuể.
TƯƠNG ỨNG.
Thầy biết trước khi gặp mặt.
Câu chuyện 1:
Ở quê nhà tôi có hướng dẫn hai bạn tập công phu Vô Vi. Chừng gặp ông Tám nói:"Ồ bây giờ có nhiều ông 8 quá!" Làm tôi cúi xuống thẹn thuồng.
Câu chuyện 2:
Thời gian Thầy học cải tạo...cánh cửa mở - Ông Tám mập lớn quá! Ngồi cao 2m, ngang 1m50 vui cười cho tôi 4 câu thơ. Lâu quá! Quên...
Câu chuyện 3:
GẶP MẶT.
Hai năm trôi qua, những ngày ở trại cải tạo - tình thầy trò bạn hữu xa cách, tôi cũng nhớ. Tết đến, ngày 25 đi giẫy mả thân sinh, gặp bạn đạo báo tin ông Tám về rồi. Ngày 28 cũng có bạn đạo báo tin. Sự thật chưa biết rõ địa chỉ, cũng nhận đi thăm Thầy. Rạng ngày mồng 2 Tết năm 1977-78, thăm ông Tám, hút điển xem cinê rồi về. Xuống Chợ Lớn tìm chợ Xã Tây hỏi 2, 3 nơi mới đúng. Vào nhà có 4 bạn ở Cửu Long thăm Thầy, nói chuyện ăn bánh tôi cũng được tiếp ở bộ sa lông giữa nhà ăn bánh, uống nước, chúc tết, đứng dậy lấy cái gối, máy cassette, kéo cánh cửa ra bắt ngồi xuống công phu. Tôi vui vẻ vì toại nguyện (40 phút trôi qua) ngoài thiền đường có 2 bạn đến mời và nói:"Ngoài ấy đông bạn đang chờ đã gần 12 giờ", ông vội vả đứng dậy, tôi xả thiền xin theo, ông bảo đi trước, sái lộ trình tôi ra xem cinê, song cái bí mật nội tâm bị khám phá!
Câu chuyện số 4
CHÂM CỨU.
Ở Sài gòn những ngày khổ sở Thầy châm cứu để sống, trò thất nghiệp vì không đủ tiêu chuẩn vô biên chế tháng 4 năm 1977. mốc thời gian nghỉ việc cũng là dịp tu chuyên hơn, nhưng "tọa thực sơn băng", tôi phải đi lượm bao ny lông ở đống rác Mỹ, về giặt sạch cân bán xa để không ai biết mình đã khổ nghèo tàn tật. Nhà giáo có danh dự! Gia đình còn mẹ già 81 tuổi, đứa con gái nuôi 14 tuổi chưa có nghề nghiệp - Dùng tâm pháp- tuy đã giải phóng, đánh tư sản ầm ỉ - đi Sài gòn, ngó Thầy hút điển rồi về. Một hôm tại số 200 Nguyễn Biểu lúc 11g25 châm xong rửa tay để đi về. Tôi đến gần ông Thầy hỏi:"Quá ngũ quan, trảm lục tướng, phải không ông Tám", ngó lên Thầy ừ - nói:"Đúng, thằng đó cao ngạo lắm! Tự tôn, tự đại, hư hết". Ông về - tôi vui. Có một lần tôi xin giấy châm cứu, đến lượt vào ông hỏi bệnh gì? - Chỉ cần điển, công phu tốt - mặc dù phong tê li bì. Ông vui vẻ châm toàn thân rất tốt. Câu chuyện số 5:
KHÓ TIN.
Mậu Ngọ...Quá mến Thầy. Một hôm tôi đến chỗ ở Xã Tây Chợ Lớn. Tôi liên tưởng mặc dù vắng ông Tám song luồng điển còn quyện hơi đó một âm vang khí thiêng, người tu đắc pháp chắc còn rơi rớt phần nào với tâm pháp của tôi liên tưởng. Căn phố êm đềm vắng vẻ lạnh lẽo, cửa đóng then cài, tôi qua ngang hông nhà gõ vào cửa sổ - la lên: "Ông Tám ơi! Có nhà không? Có Ân đến thăm ông nè ", chỉ có một mình, tiếng gọi trong sa mạc! Có niềm tin tương ứng của điển quang. Có nhiều cái lạ làm sao nói hết - nói ra là láo.
CÓ THẬT.
Dịp may hy hữu. Cánh cửa sổ mở ra, thiếm xẩm già ló đầu. Tôi dòm vào ông Tám bằng xương bằng thịt, bảo đến cửa cái phía trước. Trong nhà ba người vỏn vẹn, ông mặc bộ đồ trắng cũ, ngắn tay. Mừng rở chào ông và nói: "Tôi nghe ông đi nước ngoài, tôi buồn không gặp lại, hôm nay duyên may hiếm có!" Vô vọng lại đúng với lý tưởng Vô Vi. Không tức thị sắc, sắc tức thị không.
LẠY THẦY TAM BÁI.
Ông không làm Thầy, ai cũng là bạn. Tôi bị bịnh cùi, không có pháp này tôi sẽ chết mất. Tôi là ma quỷ, yêu tinh, là thứ hình thù xấu xa, ghê tởm. Dạy đạo ông bảo "tu đi tu đi". Không rầy la ai, biết tu thế nào? Chỉ ráng công phu. Giờ phút chia tay, lạy Thầy 3 lạy. Ông Tám mẩn tay đứng lên nói:"Tu tốt rồi đó!" Loài người ai cũng trải qua những kiếp đó mới hoàn thiện, nhận rõ là tiến. "Thưa Thầy! Trong khi xa Thầy, xin vui vẻ cho thời pháp cuối cùng" - "Ai cũng tu vô cùng tận". Chào Thầy! Ra về , 30 phút gặp Thầy quá ngắn, đầy đủ ý nghĩa vô cùng, chia tay vĩnh viễn gần 20 năm. Ký ức đó tôi nhớ mãi.
Lủi thủi trên vệ đường chợ Xã Tây, đón xe buýt về Biên Hòa, vừa đi vừa pháp luân niệm Phật ngó xuống. Ngồi trên xe quân bình tư duy nhớ lại xem Thầy dạy gì? Hiểu ra - vô là không! Cuối cùng của chữ cùng là không! Cuối chữ tận là không!
KHÔNG KHÔNG KHÔNG.
Kẻ ở lại Việt Nam, người ra đi nước ngoài, tiếp được đạo pháp năm 1973, học đạo đến 1993.
Giữ giới, nắm tâm pháp,
Âm thầm công phu tốt
Mong Thầy sống hơn ngàn tuổi vui khỏe đời đời.
Thầy ơi! Cho con hỏi nói tự do nha!
Thầy giảng kinh như ở Việt Nam, băng cũ nghe rất hay. Con ngộ đạo cái mà Thầy chưa bao giờ giảng phải không. Về đời sống con rất ổn định (đoán xâm). Về tâm linh, thanh tịnh học được khoa chiết tự, luồng minh triết, nghe được âm thinh sắc tướng, linh ảnh, địa danh, đại danh tự ráp lại bài học rất hay! Qua văn học, khi con muốn hỏi muốn biết, không bao giờ có nằm chiêm bao thấy Tiên Phật hoặc cái gì khác hơn là mê tín dị đoan. Con giữ mình là hồ nước lóng trược lưu thanh.
ẨN TU.
Lấy tâm pháp, "tu cho mình, rùm beng vô ích", vì tôi tầm tôi, lấy pháp khử cái thân trược. Thân thanh là nền tảng tâm linh, tâm linh là nền tảng sự sáng suốt- trí tuệ-giải thoát.
Ở VN nghèo vật chất, giàu tâm linh "yêu mến, mê tín"!!! Mặc dù Vô Vi là khoa học, hình nhi thượng học cũng là khoa siêu hình học. VN có hàng triệu cuốn sách cũ mới cả trăm năm do các nhà truyền pháp đắc đạo viết ra. Du nhập thêm các sách quý: Ấn Độ, Nhật , Tàu, Tây Tạng. Miến Điện, vv...Các nhà truyền đạo thế giới như các Thánh Tổ danh tiếng tràn vào VN, ngay nội địa VN, hàng triệu người tu Vô Vi bỏ nhà tìm núi cao hang sâu, biển rộng sông dài (mộng làm Thầy).
Hàng triệu người tu hữu vi hình sắc tướng ,,đền rộng thềm cao, áo quần lòe loẹt (làm giáo chủ)
Hàng triệu tín đồ Phật Tử ngoan ngoãn phụng sự mê tín, cuồng tín.
Hàng triệu đạo nhỏ rỉ tai, chạy chọt mua chuột, du nhập trá hình mượn danh, mở đạo cốt giành tín đồ về mình, chung quy họ rước họa vào thân vì thích tôn sùng danh lợi, lấy đạo tạo đời, không giải thoát, vì tôn giáo dạy con người có tâm hồn cao thượng, noi theo gương thái tử Sĩ Đạt Đa bỏ tất cả, tự tu cho mình chớ phóng tâm vô ích. Người VN biết đạo VN, nhìn họ giành đạo phát sợ. Vô Vi là khí, là thể hơi, không sắc, không mùi vị, không màu, có sức chuyển nhẹ, mạnh, còn bị lợi dụng.
Kính thưa Thầy! Thầy đừng buồn con nha! Con sợ Vô Vi nhất! Họ đủ thắc mắc, hỏi chơi. Không, con sợ hữu vi nhất! Họ bày đủ thủ tục, họ chưởi, chê nhau qua văn chương, đấu lý, đấu trí, đấu triết. Con nắm pháp, cái gì trong kinh sách không có giảng, không truyền lại, rùm beng, đó mới thật là bí quyết bí truyền, không bị đầu tư, trục lợi nhuận kinh doanh dựa hơi được! Không nói bằng văn tự! Bằng lời! Mà hiểu được.
Con âm thầm tu, cố gắng mới.
Kính gởi đến Thầy câu hỏi sâu kín nhất; Thầy vui vẻ nhận trả lời con vui.

Kính Thầy tam bái,
A B

Kính thưa quý bạn đạo,
Nếu đọc được những dòng chữ gởi đến kính Thầy, vui vẻ tha lỗi nếu có gì nghe không suôn sẻ. Vô Vi có sao nói vậy, hiểu sao viết vậy, vì nó là của hồn mình mới học khôn, ngu hồn ở nhiều tiền kiếp có túc duyên gặp pháp tốt, công phu khai sáng thì lỗi nhiều hơn là đúng, sai trái nhiều hơn tốt đẹp. Câu chuyện riêng tư cá nhân, chánh tư duy trong bát chánh.
Thưa quý bạn! Cả trăm kiếp luân hồi, nghĩ cũng buồn tủi thân phận con người, cưu mang, gánh chịu. Âu hay! Nghiệp quả, đã mang cái nghiệp vào thân, đừng nên trách lẫn trời gần trời xa. (Theo Nguyễn Du).
Kính chào quý bạn,
A B

Vô Vi không có địa chỉ, quý bạn đồng ý không? Thầy hình như biết, Sài Gòn, Chợ Lớn đều biết. Xong ngày rằm Trung Thu 1993, Quý Dậu.

...bạn đến chơi tu vui. Con về lo sơn phết nhà cửu, đứa cháu chồng bịnh chết, nó cất chùa. Phía trước vô vi, sau là hữu vi. Bốn luồng điển bay đi hết (con có 4 đứa em cùng tu). Chúng nó chê Vô Vi không nhân đạo, không từ thiện, nó chạy theo người tốt có từ thiện và nhân đạo, bỏ lại con một mình. 2 Năm trôi qua , chúng nó kỳ thị, chê Vô Vi. Nhận xét: Chúng nó 4 đứa. Bạn mới có 10 người, không làm nản chí con, song con rất thương chúng nó. Chùa có người đến đông? Rất đúng với lời nghe. Khi ở Thủ Đức. Thất bại chỉ không chỉnh đốn được 4 cậu trẻ đó. Vô Vi lại biết con nhiều hơn con giúp họ . Nhờ cùi tu Vô Vi nó lành lặn thơm tho, đẹp người đẹp nết. Tâm tình riêng tư.

NHÀ CHỖ Ở
Khi xuất được vía, nhìn thấy đời nặng nề, vô thường sanh diệt. (Lời Phật dạy). Nhân ngày mồng 8 tháng 4 vía Phật Đản sinh, tôi có ý nguyện cho nhà làm chỗ giảng pháp (hay biết mấy). Khi gặp ông Tám, ông nói sau này người người là thiền đường, nhà nhà là thiền đường, thiền đường ai cũng có, lấy làm gì?
Thưa Thầy! Hiện giờ con có nhã ý một là bán, hai là để lại. Bán thu nhỏ có tiền ăn tu đến chết. Con một thân một mình nô lệ vật chất, con khổ hoài. Để lại không ai xứng đáng giao cho! Đâu có chỗ tốt tiếp bạn đạo VN. Thầy còn ở VN có nhiều chỗ tốt hơn. Con phân vân, nếu con còn trẻ thì khỏi phải hỏi ý Thầy. Tuổi đời chồng chất, không một ai kế tục, con đinh nghi sự thử thách cuối cuộc đời - Phàm ngã. Con vui vẻ cho 4 đứa đó mà 1 đứa tự cao ngạo, 1 đứa tự làm từ thiện- phóng tâm, 1 đứa theo lên núi Cấm, 1 đứa tốt song khó rời nhà ra đi. Con thưa với Thầy con định bán cho Vô Vi ngoại quốc, khi về VN có nơi thanh tịnh tự do. Cô Tố Anh biết con và chỗ ở có được không? Kính bái Thầy, chúc sức khỏe, Thầy sống lâu trăm tuổi, cả trăm tuổi.
Tu Vô Vi giải thoát không thèm hột bụi của trần gian, không giành ngôi cao bè phái, phe lũ, mệt và chán lắm. Khi viết thư cũng sợ họ để ý vì bọn trá hình Vô Vi, lợi dụng? Vô Vi không nhà, không lời, cái gì cũng tạm mượn nên thông cảm chỗ đó. Trần gian này giả thiệt khó phân, yêu quỷ trà trộn, thú người ở chung.
 
Thư đi:
Olympia , ngày 2/8/94

T A,
Trời ban tình đẹp tự xét phân
Giải tỏa phiền ưu tự góp phần
Chánh pháp cứu đời nay tự thức
Triền miên tiến hóa tiến cao tầng

Duyên trời xa cách 20 năm
Tâm tu vẫn giữ vẫn tầm đường đi
Trời ban nguyên khí thực thi
Pháp Luân Thường Chuyển đuổi đi bệnh cùi
Thực hành nguyên lý rèn trui
Quy không thanh nhẹ an vui đạo đời
Chơn hồn tiến hóa hợp thời
Một lòng tu tập chẳng rời pháp môn
Tự mình cải tiến trường tồn
Hồn minh tâm giác giữ hồn lo tu
Khai thông trí tuệ chẳng mù
Lui về thanh tịnh an du thực hành
Hướng về tam giới cõi thanh
Sống bằng thanh khí cạnh tranh chẳng còn
Quy y thanh thoát đường mòn
Nhớ thầy thương bạn sống còn tự tu
Chuyện đời diễn tả tiền xu
Thiên đàng chỉ có trùng tu đạt thành
Có nhà có cửa giới thanh
Trí tâm thanh nhẹ cạnh tranh chẳng còn
Cứu người gieo rắc đường mòn
Lưu thanh giải trược chẳng còn si mê
Ngộ Thầy trong cảnh hương quê
Trời ban tình đẹp mãi mê không về
Ngày đêm tu luyện chẳng chê
Cảnh đời tâm đạo mãi mê thực hành
Cảnh đời động loạn cạnh tranh
Xác kia phải chết không tranh được gì
Tranh nhau thực hiện bài thi
Cuộc đời là tạm tự ghi tiến lần
Tự mình thực hiện giải phân
Tầng cao tầng thấp là tầng tự đi
Tu hành đạt lý thực thi
Say mê đời đạo dự thi hoài hoài
Sửa mình tiến hóa mới tài
Tiền nhân truyền pháp giữ hoài mà tu
Nam mô giải tỏa khờ ngu
Tự mình thức giác trùng tu hoài hoài
Trời ban rành mạch đêm ngày
Lộc Trời ban phước dịp may tiến hành
Một lòng một dạ hướng thanh
Giải mê phá chấp thực hành đến nơi
Tâm thân thanh nhẹ tự rời
Hướng về thanh tịnh nơi nơi an toàn
Cùng chung nguyên lý bạc bàn
Chơn tâm thanh nhẹ là đàng tự tu
Thầy đi giải tỏa mê mù
Chúc con thanh nhẹ tự tu độ đời.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu2
 
Vài thư đi thư lại mới đây
701. Ngày 16-06-1981. Người viết: L
702. Ngày 06-07-1981. Người viết: HDT
703. Ngày 07-06-1980. Người viết: NTB
704. Ngày 14-06-1981. Người viết: MNP
705. Ngày 26-09-1980. Người viết: LH
706. Ngày 02-01-1981. Người viết: TKH
707. Ngày 25-09-1999. Người viết: HKL
708. Ngày 25-09-1999. Người viết: LTD
709. Ngày 20-02-1999. Người viết: LTP
710. Ngày 22-09-1999. Người viết: LNB
711. Ngày 06-11-1999. Người viết: HTKH
712. Ngày 17-02-1999. Người viết: NTH
713. Ngày 25-12-1999. Người viết: ĐTMD
714. Ngày 18-03-1999. Người viết: LMD - TD
715. Ngày 19-09-1999. Người viết: UXT
716. Ngày 04-04-1999. Người viết: CPC
717. Ngày 03-09-1999. Người viết: NMT-TL
718. Ngày 24-08-1990. Người viết: BMT
719. Ngày 01-10-1990. Người viết: TS
720. Ngày 05-08-1990. Người viết: NTT
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 29 30 31 32 33 34 35 [36] 37  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: