Thư đến: '... nhờ Thầy chỉ dạy con những điều con còn thắc mắc'
G V , ngày 15 tháng 3 năm 1993

Kính gởi Thầy,
Từ ngày con vào pháp môn này đến nay con chưa được diễm phúc gặp Thầy lần nào nhưng con nghĩ Thầy cũng biết con nhiều qua phần Vô Vi.
Hôm nay nhờ nhân duyên con gặp được các bạn đạo bên ngoại quốc về nên con có đôi giòng gởi Thầy, nhờ Thầy chỉ dạy con những điều con còn thắc mắc.
1) Con hay bị sôi ruột lúc công phu nữa đêm trong khi ban ngày không có triệu chứng đó. Lúc công phu có khi nghe thốn nơi tim, bên phải trước ngực, có khi thốn phía sau lưng (phía sau ngực), lúc có lúc không, có lúc đau thốn nơi huyệt hiệp tích và mạng môn.
2) Con hay chảy nước mắt khi làm Pháp Chiếu Minh, Soi Hồn và làm Pháp Luân Thường Chuyển; Khi trợ luân lúc nhíu hậu môn con nghe 1 luồng hơi chạy từ hậu môn lên hà đào thành; Vì bận việc gia đình nên con không làm thường xuyên những pháp môn phụ như trợ luân, lạy kính vô vi. Thỉnh thoảng con mới làm, còn phần chánh như niệm lục tự Di Đà 24/24 và mỗi đêm con công phu đúng 12 giờ đều đặn; Như vậy con có được mở luân xa sớm không hả Thầy?
3) Chú Sáu Lung có chỉ con hôn đầu gối 36 lần sau khi xả thiền, cái này con làm đều đặn mỗi đêm; Như vậy có mở được đốc mạch không hả Thầy?
Thưa Thầy! Lúc trước con đi đám ma, có lúc lại gần người chết chưa liệm, con không thấy khó chịu gì cả; Nhưng mới gần đây con đến thăm 1 người hấp hối sắp chết, con bị nặng và tức ngực quá con chịu không nổi, phải quay về nhà làm Chiếu Minh 12 cái và đi tắm vẫn không hết, con phải làm 78 cái Chiếu Minh mới hết; Nhưng tại sao con niệm bát chánh thì chỉ thấy ê ê từ mũi đến huyệt ngọc chẩm thôi, có lúc có lúc không là sao hả Thầy?
Kính thưa Thầy! Con vào pháp này từ 1981 nhưng 1986 đến giữa 1992 thì con hơi giải đãi nên không tiến được bao nhiêu. Từ tháng 8/1992 nhờ gặp được chú Sáu Lung và các bạn đạo, con mới mượn được băng cassette và các bài vở Thầy giảng nên con hành pháp rốt ráo trở lại, con thấy có tiến triển hơn trước là bỏ được sân si và mê chấp những việc không đáng. Sau đây con kính xin Thầy chỉ giúp giùm con 2 việc ngoài chuyện đạo pháp là:
1) Giòng họ Thi của con kiếp trước không biết làm điều chi ác ôn mà ngày nay từ đời ông nội, cha mẹ và 2 người anh con chết mà mồ mả đều bị thất lạc và cũng không biết được ngày tháng chết nữa?
2) Má nuôi của con chết ngày 29/11 năm Tân Mùi thiêu tại Thủ Đức, hiện giờ không rõ đã được siêu chưa hay có được Thầy cứu độ đi tu không? Má con tên Phạm thị Kiều, lúc chết được 94 tuổi, người này là dì ruột nuôi con từ lúc 3 tuổi đến lớn.
Rất mong Thầy thương con mà giúp cho con biết được 2 điều trên đây để con được an tâm tu hành. Con xin nguyện với Thầy con hiến trọn thân này cho đạo pháp, trước đền ơn Thầy và Trời Phật, sau cứu Cửu Huyền Thất Tổ.
Con kính xin Đức Thầy và Đức Tổ Sư luôn gia hộ cho con T T L tuổi Mậu Dần được tu hành tinh tấn để được trọn lời nguyện ước trên đây.
Con kính lạy và chúc Thầy luôn luôn khỏe để dẫn dắt các con trên đường tu học đạt kết quả tốt đẹp để đoàn tụ với Cha Trời.

Con kính lạy Thầy,
T T L

TB: Chúng con rất mong được gặp lại Thầy tại VN.
 
Thư đi:
Reunion, ngày 7/9/93

T L con,
Thầy đã vui nhận được thư con, được biết con đã có một ý niệm tu hành tự tiến.
Tâm biết tu nhưng thân xác không được trong sạch thì biến thể của nó là bệnh hoạn, khó tiến. Con nên thanh lọc một kỳ bằng nước chanh trong khoảng 10 ngày thì con sẽ được thanh nhẹ hơn và đem bớt một số độc tố trong người ra ngoài thì sẽ tham thiền được tốt hơn.
Còn về gia đình những người quá cố đều phải tiến hóa theo luật nhân quả đã quy định. Con là người tu phải hiểu rõ luật nhân quả, tâm làm thân chịu thì mọi việc sẽ yên vui và dễ tu hành. Khi người chết quá 90 tuổi là phần hồn đã gặt hái được rất nhiều luật vay trả của trường đời và sẽ được tiến hóa nhẹ nhàng hơn. Điều này con khỏi lo và yên tâm tu học để phần điển của con có thể hỗ trợ cho những người quá cố được ấm áp. Chúc con vui tiến.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamwriting
 
Vài thư đi thư lại mới đây
21. Ngày 04-08-1996. Người viết: HT
22. Ngày 16-07-1996. Người viết: M
23. Ngày 20-07-1996. Người viết: TN
24. Ngày 16-07-1996. Người viết: NTT
25. Ngày 22-12-1995. Người viết: LN
26. Ngày 20-06-1996. Người viết: HBT
27. Ngày 11-11-1995. Người viết: TQM
28. Ngày 04-04-1996. Người viết: N
29. Ngày 05-12-1995. Người viết: LQT
30. Ngày 07-11-1995. Người viết: NTN
31. Ngày 10-05-1995. Người viết: NVT
32. Ngày 05-08-1995. Người viết: B
33. Ngày 30-05-1995. Người viết: NTTX
34. Ngày 24-05-1995. Người viết: NTC
35. Ngày 15-02-1995. Người viết: HMN
36. Ngày 01-06-1995. Người viết: T
37. Ngày 27-07-1995. Người viết: HDM
38. Ngày 02-07-1995. Người viết: LKT
39. Ngày 07-07-1995. Người viết: HVH
40. Ngày 11-07-1995. Người viết: LTB
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 1 [2] 3 4 5 6 7 8  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: