Thư đến: '... Con xin lần lượt trình bày chi tiết để báo trình Thầy'
H A , ngày 15/12/1991

Kính thưa Thầy,
Lần đầu tiên con thay mặt gia đình viết thư kính hầu thăm Thầy. Con xin phép giới thiệu để báo trình Thầy:
- Con tên P H H, tên thường dùng P L L, tuổi Đinh Mão 1-1-1927, 65 tuổi.
- Vợ của con Nguyễn Thị M, tên thường dùng Nguyễn Thị P, tuổi Đinh Sửu 15-1-36, 55 tuổi.
- Con của con Huỳnh Thị H, tên thường dùng Huỳnh Thị P, Giáp Ngọ 1-11-54.
Quê quán ở khúc ruột miền Trung tỉnh Quảng Nam , Đà Nẵng.
Vợ chồng con đã nghỉ hưu; Con của con làm công nhân viên, bị bệnh xin thôi việc ở nhà giúp bố mẹ.
Toàn gia đình chỉ có 3 người sống dựa lương hưu cộng thêm lãi tiết kiệm để có ăn và lo tu tập.
Con xin lần lượt trình bày chi tiết để báo trình Thầy: Kinh nghiệm người thứ 1:
1) Vợ của con Nguyễn Thị P, do bệnh hoạn sau chiến tranh để lại quá nhiều, không đi làm việc nổi nên tháng 7-1978 xin cơ quan giám định sức khỏe để xin đi chữa bệnh và có điều kiện nghỉ hưu. Hội đồng giám định y khoa kết luận: Ung thư tử cung, bệnh khó chữa, cho nghỉ ngơi thoải mái; Họ nói riêng với con rằng bệnh chỉ giỏi sống vài năm nữa. Trước tình hình ấy bà rất bi quan, không tin vào khả năng điều trị của Đông Tây Y mà tin vào tìm kiếm một giải pháp điều trị khác. Bà đã đến các điện thờ, thường lên đồng bóng, xưng tên giáng trần cứu bệnh, cứu hoạn; Bà mừng không xiết vì gặp Tiên thế nào cũng được chữa lành bệnh. Từ điện này đến điện khác, đêm nào cũng chuẩn bị lễ vật như hương, nhang, rượu trắng, giấy trắng để cúng Tiên, xin cầu Tiên chữa mau lành. Qua một thời gian vài ba tháng, bệnh không giảm mà có chiều hướng tăng, nên bà chuyển qua đi chùa thỉnh kinh, chuông, mỏ và các khuông ảnh hình các Phật Tiên về thờ. Vì tránh theo dõi của tổ chức, nên đêm nào từ 12 giờ khua đến 3 giờ sáng là bà dậy tụng kinh, thắp nhang, đèn ...
Nhưng qua 3 tháng, không giảm, chiều hướng bệnh phát triển không tốt, luồng không khí bi quan buồn nản phong tỏa mạnh hơn trước. Nhưng may thay, ở hiền gặp lành, được ơn trên phổ độ, bà gặp một người con gái trạc 25 tuổi, cho mượn tập Tôi Tầm Đạo 1-2-3. Tranh thủ đêm ngày bà đọc xong và quyết tâm hành pháp từ 24-1-1979 đến nay. Do nghỉ hưu có điều kiện nên hằng năm bà đi Nha Trang , Sài Gòn tìm đạo hữu; Những năm trước bà đến anh Nguyễn Xuân Liêm, anh Hồ Văn Em, bà Bảy cư xá Thanh Đa, anh Sáu Lung để trau đổi kinh nghiệm và học hỏi thêm và xin tài liệu ... Đà Nẵng rất khan hiếm. Bà kiên trì rèn luyện đến nay tròn 13 năm, không bỏ một bữa nào, hiện nay sức khỏe bà khác hẳn xưa, từ 42 kg lên 61 kg, đổi tướng, da thịt hồng hào, bà con chòm xóm ngạc nhiên hỏi thăm, chữa thuốc gì mà thần hiệu đến thế. Bà tự rút kinh nghiệm là chữa bệnh không tốn tiền, chỉ một điều là phải bền tâm, vững chí, rèn luyện đúng pháp Thầy dạy. Nhưng ở đây mới đạt được kết quả bước đầu về thể xác có thay đổi lớn, còn về phần hồn thì phải tiếp tục phấn đấu và nhờ ơn trên hộ độ.
Kính thưa Thầy! Nhờ ý chí quyết tâm, tầm sư học đạo, đến nay đã giải tỏa được bầu không khí bi quan, ảm đạm của năm xưa, được tiếp xúc với bầu không khí trong lành, tươi sáng, nên vợ chồng con đã dời nhà từ Đà Nẵng vào ở Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh để gần gũi đạo hữu học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Thưa Thầy! Đã gặp lành lại vừa gặp phước - là gặp chị Tố Anh về với tấm lòng vì đạo, chị đã hướng dẫn, bồi bổ thêm kinh nghiệm quý báu và hướng dẫn thanh lọc; Lần đầu tiên bà đã thực nghiệm 14 ngày, nay da thịt thêm hồng hào, sức khỏe tăng hơn trước, nay chỉ còn 2 bên chân nóng rát.
Kinh nghiệm người thứ 2: Con của con là Huỳnh Thị P, cháu bị bệnh đường cũng từ lúc 16 tuổi, qua 22 năm ốm đau lặt vặt, đêm ngủ không yên, tính tình không bình thường, lúc vui, lúc buồn hay gây gổ như người có cơn, lảng trí, nhưng nhờ cháu theo mẹ cháu hành pháp này từ 1979 đến nay, tuy có lúc bị những nguời tu pháp khác (dùng điển thiên linh cái) lối kéo đi trật hướng vài ba tháng lúc cháu xa gia đình, nhưng nhờ lúc tập họp gia đình về một nơi từ tháng 12-1988 đến nay, lại được anh Sáu Lung Bà Chiểu giải hộ, mẹ cháu giúp đỡ, nên cháu sớm nhận ra cái sai, đi lại đường chánh pháp, nên đến nay cháu đã khá rất nhiều. Điều may mắn là dời nhà vào ở Thủ Đức, cháu có điều kiện tiếp xúc với nhiều đạo hữu có kinh nghiệm đi trước truyền cho, cộng với chí kiên trì nên càng ngày cháu càng được giải dần nghiệp chướng. Vừa rồi cháu nhờ chị Tố Anh nhiệt tình giúp đỡ, cháu cảm động tâm sự rằng chị Tố Anh chẳng khác gì bà mẹ hiền, thực sự giúp cháu vượt qua thử thách;Cháu đã thanh lọc 21 ngày, da thịt hồng hào, bệnh hoạn giảm hẳn, sức khỏe tăng hơn trước nhiều.
Kính thưa Thầy! Cách đây 2 năm, anh Sáu Lung Bà Chiểu khuyên cháu không nên vì kiệt sức, nên cháu không dám thực hiện. Nay nhờ chị Tố Anh hướng dẫn cháu thanh lọc 21 ngày, sức khỏe tốt khá. Phần cháu thắc mắc về can ngăn không cho thanh lọc của anh Sáu Lung, mong Thầy ...
Từ đầu 1991 đến nay, bộ đầu cháu mát mẻ từ trung tâm đến giữa trán lúc ngồi thiền cũng như lúc nghỉ. Cháu hỏi chị Tố Anh, chị cho rằng tốt nhưng cháu cũng chưa thỏa mãn, mong Thầy giải hộ để cháu yên tâm.
3) Con tên Phan Hồng H, nghỉ hưu từ cuối 1988. Theo nguyện vọng của vợ con, con đã di chuyển gia đình từ Đà Nẵng vào Thủ Đức. Trước đây do điều kiện còn làm việc nên con chỉ tập thở nằm và tích cựa hỗ trợ cho vợ và con hành pháp. Qua kết quả đạt được của vợ và con, có tác động đến tâm tư, tình cảm của con, nên con đã hòa nhập với gia đình hành pháp này từ tháng 7/91. Từ 12 giờ khua đến 8 giờ sáng ngồi 2 cử. Do thời gian còn ít, nên chưa có kinh nghiệm bao nhiêu, nhưng người của con cảm thấy ăn ngon, ngủ tốt, da thịt hồng hào hơn trước, người khỏe mạnh.
Kính thưa Thầy! Con là người đi sau chưa có kinh nghiệm nhưng là người chủ trì trong gia đình nên con thay mặt gia đình viết thư hầu thăm Thầy, trước hết chúc Thầy dồi dào sức khỏe cùng gia quyến an vui, Thầy sống lâu muôn tuổi dìu dắt chúng sanh cùng tiến; Con làm mấy câu kính thăm Thầy để kỷ niệm:
Mừng vui tu hết cả nhà
Vợ chồng, con cái chan hòa tình thương
Đã cùng bạn đạo bốn phương
Quyết tâm theo pháp ân sư dạy bày
Từ nhiều bệnh hiểm nghèo khó chữa
Phải bó tay cam chịu khổ đau
Qua rèn luyện nhiều năm gian khổ
Đến hôm nay hé sáng niềm tin

Thành tâm báo đáp ơn Thầy
Thực hành chánh pháp có ngày khai hoa
Gia đình con tuy ở xa
Nhớ ơn đến bậc ân sư muôn đời.

Thay mặt gia đình con,
P L L

TB:
1) Con có một bạn đạo tên Phan Thành có thắc mắc một điều, kính xin Thầy giải thích thật cặn kẻ chi tiết:
Bài cầu nguyện sau bữa ăn:
Nam Mô Bát Nhã Ba La Mật Đa
Độ Nhất Thiết Khổ Ách
Mam Mô A Di Đà Phật
2) Vợ của con, Nguyễn Thị P, trước đây không có, cách đây 2 năm (90-91) 2 bàn chân nóng rát và tê, không rõ nguyên nhân gì, mong Thầy giúp đỡ, chỉ vẽ để trị.
 
Thư đi:
Ngày 12/2/1993

H L,
Thầy đã nhận được thư của con đề ngày 15/12/1992, được biết khổ cảnh của trần gian - bệnh hoạn là một dịp may để trở về thực chất của tâm linh.
Có hoạn nạn mới biết được phần hồn. Khi biết được phần hồn, đó là cơ hội tiến hóa vô cùng tận. Nhờ bệnh hoạn mà ngộ được pháp tu là đại phước cho gia đình. Nó cũng đòi hỏi một kỳ công của cá nhân hành pháp, nhiên hậu mới đạt được thành quả mỹ mãn ở tương lai. Cuộc đời là tạm, thấy đó mất đó, không tồn tại. Chỉ có phần hồn đang nương tựa và nghịch cảnh để tiến hóa. Tâm làm thân chịu. Chỉ có đường tu học, tiến hóa thì mới giải được nghiệp tâm. Còn xác phàm, nó là một tiểu thiên địa, cũng là một kho tích trữ độc tố từ nhiều năm nên mới sanh bệnh hoạn. Pháp hít thở của Vô Vi có nhiệm vụ hóa giải độc tố trong cơ tạng, càng làm nhiều lại càng được chóng khỏi bệnh. Gần đây, có nhiều phương pháp thanh lọc như nước chanh hay phương thức cây cỏ bên Mỹ, cũng giúp giải được nhiều bệnh hoạn. Về phần của vợ con, bàn chân nóng rát và tê cũng là triệu chứng của độc tố đang tụ tập nơi đó. Vậy con nên tiếp tục thanh lọc rồi sẽ hết. Tạm sống để lo tu hành cho phần hồn được nhẹ nhàng để lúc lìa thế phần hồn sẽ không bị hành hạ. Nuôi dưỡng tinh thần giải thoát, vượt qua mọi tần số tranh chấp của tình đời thì hồn xác sẽ được nhẹ nhõm. Lúc chết có tiên đồng đưa rước về nơi thanh tịnh để tiếp tục tu học. Nay chúng ta đang có cuộc sống và chỉ còn mong ước làm sao cuộc chết sẽ được thanh nhẹ mà thôi. Chỉ ăn chay thanh sạch, lo tu hành tinh tấn thì sẽ giải quyết được điều này. Tin nơi Trời Phật thì Đấng Đại Từ Bi không bao giờ bỏ chúng ta cả. Vui hành và tiến, trở về gốc gác đại từ bi là nơi bình đẳng tâm giao, sẽ không còn sự kích động nữa.
Khi co lưỡi răng kề răng niệm: Nam Mô Bát Nhã Ba La Mật Đa thì các hướng đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, 8 hướng nước miếng chuyển chạy đồng đều. Sắc Bất Dị Không, Không Bất Dị Sắc là trong có trở về không, trong không trở về có. Thời Nhất Kiến Ngũ Uẩn Giai Không, lúc ấy luồng điển gom gọn và chuyển chạy theo chiều hướng Soi Hồn hằng đêm của hai lỗ tai, cặp mắt và lỗ mũi, xuất phát ra không không thanh nhẹ, chạy về ánh sáng của Mô Ni Châu. Thọ Tưởng Hành Thức, Diệt Phục Như Thị - tất cả đều quy một như chính phần hồn đã và đang tu. Độ Nhất Thiết Khổ Ách - hóa giải tất cả những sự đau khổ và tiến hóa lên trên. Nam Mô A Di Đà Phật - là quân bình tiến hóa thăng hoa. Làm như vậy và cảm thức rõ ràng, tâm sẽ được an, vạn linh được chung sống và tiến hóa theo chiều hướng phát triển của tiểu thiên địa tức là xác phàm.
Chúc con và gia đình vui tiến.

Quý thương,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu3
 
Vài thư đi thư lại mới đây
161. Ngày 10-12-1992. Người viết: TKV
162. Ngày 29-12-1992. Người viết: TBN
163. Ngày 29-01-1993. Người viết: HKP
164. Ngày 01-06-1993. Người viết: MH
165. Ngày 03-01-1992. Người viết: HTN
166. Ngày 22-12-1992. Người viết: TLT
167. Ngày 02-12-1992. Người viết: N
168. Ngày 27-12-1999. Người viết: VTS
169. Ngày 18-01-1993. Người viết: NNT
170. Ngày 07-03-1993. Người viết: TTL
171. Ngày 21-12-1992. Người viết: LTKP
172. Ngày 28-11-1982. Người viết: KGT
173. Ngày 29-06-1993. Người viết: Đ
174. Ngày 10-04-1993. Người viết: LTT
175. Ngày 10-02-1993. Người viết: TTNT
176. Ngày 26-00-1993. Người viết: LNB
177. Ngày 16-12-1992. Người viết: TVT
178. Ngày 26-06-1993. Người viết: PKL
179. Ngày 18-02-1993. Người viết: LTL
180. Ngày 29-07-1993. Người viết: TA
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 5 6 7 8 [9] 10 11 12 13  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: