Thư đến: '... Thư đi rồi sẽ đến nơi. Trong tay ông Tám đôi lời kính thăm'
Tâm thư mong gởi đến Thầy
Cái Răng, 5-4-82

Giờ này của ngày đấy, con về quê đất Lịch, tạm nghĩ lại đất Duyên An, từ lòng nao nao nỗi niềm đất Cái. Con xin viết bức tâm thư trao về xứ lạ xa xôi, nơi ấy, Canada, trao tâm tình này vẫn đến tay ông Tám kính yêu. Khai bút đề thư con kính thăm Ðức Ông Tám Bồ Ðề Thanh Chưởng, kính chúc quý bạn đạo nơi đây luôn vui tinh tiến hành pháp về quê cũ.
Ðức Ông Tám kính mến! Con sinh ra cảnh đời eo hẹp khó khăn, hoàn cảnh chúng con khó tạo cho con tìm gặp Ðạo Lý. Cũng may thay! Cảnh đời tạo bờ khổ đau đã len lỏi cho con nhiều tư duy mà nhận thức rằng đường về quê cũ đầy gian nan, trần nhẫn, hoàn cảnh nào trước đấy con đến Vô Vi và nghiệp lực gì khiến con gần được Pháp Lý để hành hương, phản bổn hồi hương? Phải chăng hoàn cảnh hay nghiệp thức đã sống lại cho con tạo niềm tin đi tới! Vì mang nỗi niềm chua xót cảnh đời. Riêng cá thể, mà con đã gặp Ðức Ông Tám, xin cho con nhiều thanh điển hóa giải công phu, tạo dũng chí con vững mạnh lạc quan, đời đạo song tu và tâm chi ảnh của Ðức Ông Tám về bên con sẽ là niềm tinh tiến. Mang cảnh sống nghèo nàn khó hành nhưng lòng con lúc nào cũng ao ước những lời cao quý của ông Tám, băng ghi âm, nhưng làm sao con có được để nghe? Vả lại, cũng ít họp bạn đạo để nghe. Xin Ðức Ông Tám giúp con niềm tin yêu. Tin yêu giáo pháp sẽ là động lực giúp con cởi mở tâm linh và lạc quan với đời mà tu tâm sửa tánh, hành sự phước huệ song tu. Ðối với nhiều bạn đạo, sự công phu chắc tiến và hạp hơn con nhiều. Chỉ một chiếc đồng hồ đeo tay mà khi đi, khi nghĩ, con chẳng nghĩ mong một điều gì! Chỉ xin Ðức Ông Tám ban cho con một cái ân lành, dù bản thể con khi nặng và lúc nhẹ, luôn luôn được thức đúng giờ hầu công phu tinh tiến, để quãng công trình không đứt đoạn. Càng công phu con mới rõ được chính con nhiều hơn và xác định được vị trí của mình trong vũ trụ và quên hẳn những suy nghĩ mê mờ, mình là nạn nhân của nghiệp lực hay là căn kiếp khổ đau. Giờ đây con chẳng nghĩ ngợi được những gì thêm, ngoài những gì con đã bày tỏ. Tâm thư kính thăm chỉ mấy lời, mong Ðức Ông Tám ban ơn và chúc phúc cho con tinh tiến trên đường học và hành.
Cuối bút đề thư con xin mạn phép đại diện toàn thể bạn đạo Cái Răng kính gởi lời thăm đến ông Tám với tình thương của không gian vô tận. Kính lời chào hỏi và chúc mừng bạn đạo khắp nơi an vui và tu tiến mạnh trên đường về quê.
Quê hương đất Cái, con trông chờ báo tin hồi thư của Người!

Thư đi rồi sẽ đến nơi
Trong tay ông Tám đôi lời kính thăm
Ðêm nay thức viết thì thầm
Tỏ lòng nối khúc lặng ngầm từ lâu
Thư đi thư lại còn lâu
Nhưng lòng đôi ngã sẽ gần nhau luôn.

Kính bút đề thư,
Con,
NK
 
Thư đi:
Portland, 15-6-82

NK,
Tâm thư đã nhận được rồi
Quy hồi tâm thức quy hồi cảm giao
Biết mình thức giác muôn màu
Ðồng hồ có sẵn trước sau đúng giờ
Minh tình chuyển hóa thiên cơ
Dạy cho hiểu đạo tùy giờ thăng hoa
Tâm đời cảm giác cách xa
Tâm đạo liên kết chan hòa luôn luôn
Cảnh Trời mới thật chơn nguồn
Thanh bình sống động tự buông thế tình
Chung quy chỉ sống một mình
Học rồi tiến hóa cảm minh cội nguồn
Thế gian dự cảnh làm tuồng
Hát rồi hết hát phải buông ra về
Hồn thời thấu đáo hương quê
Chẳng còn giao động tạo mê tạo buồn
Khí Trời chuyển hóa từ nguồn
Trong thanh tươi đẹp chuyển luôn tâm hồn
Cái Răng vẫn sống vẫn còn
Trời ban tình đạo sắc son hợp hòa
Huynh huynh đệ đệ chung nhà
Lo tu lo tiến lo hòa hư không
Cơ Trời chuyển hóa giao phong
Có ngày tái ngộ ước mong tiêu trừ
Biết mình được sống vui cười
Làm Cha thể xác người người cảm giao
Hồn là hướng thượng vinh cao
Thực hành tiến hóa tự đào chiều sâu
Khuyên người thiên đạo có câu
Học nhẫn tự tiến chẳng sầu chẳng lo
Chúc cho các bạn lần mò
Ðến nơi đến chốn tự dò chơn tâm.

Kính thư,
Lương Sĩ Hằng
OngTamVietThu1
 
Vài thư đi thư lại mới đây
401. Ngày 07-10-2001. Người viết: MTMU
402. Ngày 23-12-2002. Người viết: TL
403. Ngày 10-01-2002. Người viết: NTKC
404. Người viết: MK
405. Ngày 17-02-2003. Người viết: NP
406. Người viết: NP
407. Ngày 13-07-2002. Người viết: NTT
408. Ngày 16-08-2002. Người viết: N
409. Ngày 08-08-2002. Người viết: TTN
410. Ngày 28-08-2002. Người viết: PTPM
411. Ngày 03-09-2002. Người viết: TTAH
412. Ngày 10-09-2002. Người viết: BC
413. Ngày 06-05-2002. Người viết: LKP
414. Ngày 27-03-2002. Người viết: TVK
415. Người viết: VHH
416. Ngày 17-09-2001. Người viết: NVC
417. Ngày 10-06-2002. Người viết: MB
418. Ngày 14-06-2002. Người viết: ĐNTT
419. Ngày 28-10-2000. Người viết: PLH
420. Ngày 20-07-2000. Người viết: NVT
 
của tổng cộng 724 thư đi thư lại (được phổ biến) theo thứ tự ngược lại của ngày tải lên Thư Viện.
left-blu2 left-blu3 17 18 19 20 [21] 22 23 24 25  right-blu3 right-blu2
 
 
 
down-yel gif
Hướng dẫn cách dùng
(1)Trang 'Thư Từ Lai Vãng', cũng như cả VoviLib, là một phương tiện của chung, chứa đựng những thư đi thư lại trên đường hoằng pháp của thiền sư Lương Sĩ Hằng và bạn đồng hành trong suốt những năm Ngài còn tại thế. Chúng tôi lưu trữ những thư từ ấy trong chữ viết trong database để giúp việc truy cập của hành giả được dễ dàng hơn.
(2)Khung Tìm nhỏ ở bên trên có thể giúp quý vị tìm bài. Để sử dụng, đánh vào khung vài chữ muốn tìm của lá thư, chẳng hạn như 'VHT' (viết tắt tên người viết thư) và bấm 'Go'. Nếu tìm theo năm tháng, cần đánh theo thứ tự 'năm-tháng-ngày'. Thí dụ: '1988', hay '1988-07', hay '1988-07-06'. Nếu để trống và bấm 'Go', kết quả sẽ là tất cả thư từ hiện có! Xin dùng kiểu chữ Unicode.
(3)Để đọc một lá thư tìm được, bấm vào link của thư đó, lá thư sẽ hiện ra phía bên trái.
(4)Nếu bạn có account và đã login, có thể dùng link "Tải Thư Từ Lai Vãng lên Thư Viện" hiện ra ở bên trên để mang thư vào.
 

(Thư viện đang gom góp các thư từ lai vãng của Đức Thầy và hành giả Vô Vi. Kính mời quý bạn đạo gần xa đóng góp cho kho tàng chung này ngày càng đầy đủ hơn. Đa tạ.)

Tìm: